|
Về cái sự “rất dầm dề” của văn chương Việt hôm nay
[đối thoại]
|
|
Nhà thơ Nguyễn Tôn Hiệt viết bài “Một nền văn chương giàu cảm xúc” theo lối phóng đại châm biếm hài hước, đọc rất vui, nhưng lại bắt đúng mạch chứ không phải đùa chơi. Cách đây mười mấy năm, trong bài “'Thơ Con Cóc': Một bài thơ hay”, nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc cũng đã nói về cái “rất dầm dề” của văn chương Việt: Các nhà phê bình văn học hay đả kích trường-phái-thơ-thị-nở vụng về, ngọng nghịu hoặc trường-phái-thơ-đồ-chiểu khệnh khạng, lúc nào cũng lên gân, làm thơ cứ như giảng bài hoặc như bắn súng mà thường quên đi hoặc có khi đồng tình với trường-phái-thơ-thuý-kiều đến nay vẫn là dòng chủ đạo trong nền thơ Việt Nam, đẹp thì cũng có thể gọi là đẹp, nhưng là một cái đẹp rất sáo, rất cũ, đặc biệt, rất ru em và rất dầm dề. Ru em ở nhạc điệu: lúc nào cũng du dương, cũng nhè nhẹ, cũng à ơi. Dầm dề ở cảm xúc: động một chút là thở than, là rơi nước mắt, là ‘Ôi Kim lang, hỡi Kim lang’.
Ông còn giảng rõ vấn đề hơn nữa: Việt Nam không phải là dân tộc duy nhất theo ‘đạo’ thuý kiều. Đó là hiện tượng khá phổ biến trên thế giới ở thế kỷ trước, gắn liền với chủ nghĩa lãng mạn, xuất phát từ cái nhìn duy cảm, thói quen thi vị hoá và niềm say mê gãi những vết mụn âu sầu trong hồn mình. Thoạt đầu, nó là một cuộc cách mạng, chống lại tính chất duy lý, tính chất quy phạm, sự sùng bái cái đẹp vĩnh cửu và bất biến của chủ nghĩa cổ điển, mở ra con đường mới cho văn học bằng cách đưa ra một cái nhìn mới đối với vai trò của trí tưởng tượng, một thái độ mới đối với thiên nhiên, nhưng càng về sau tính chất sáng tạo càng phôi pha dần, các nhà thơ biến thành những chuyên viên đi sụt sùi trước những nấm mồ vô chủ, khóc lặng lẽ dưới mưa, ngẩn ngơ khi hoàng hôn xuống, lâu lâu lại gào lên não nuột: ‘Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm / Anh nhớ em, em hỡi, anh nhớ em...’
Chủ nghĩa lãng mạn là nguyên nhân của cái sự “rất dầm dề” trong văn chương Việt. Điều lạ là phương Tây xài chủ nghĩa lãng mạn một thời rồi từ bỏ nó để mở ra những con đường khác, nhưng người Việt ta lại cứ ôm nó khư khư cho đến bây giờ. Vì sao? Nguyễn Hưng Quốc giải thích: Ở Tây phương, người ta từ bỏ thói quen sướt mướt này khá sớm. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, các nhà thơ trong nhóm Thi Sơn (Parnassians) của Pháp đã chủ trương đè nén cảm xúc và đề cao cái nhìn khách quan trong thơ; từ đầu thế kỷ 20, các nhà thơ thuộc phái Duy hình tượng (Imagism) của Anh và Mỹ đề ra một số nguyên tắc làm thơ, trong đó, về phương diện ngôn ngữ, nguyên tắc đầu tiên là không dùng tính từ, những từ, theo họ, chỉ làm nhão cảm xúc chứ không gợi ra điều gì cả; T.S. Eliot đưa ra quan niệm phi ngã trong thơ: nhà thơ không phải là người có một cá tính để thể hiện mà là người có một phương tiện đặc biệt để dùng: ngôn ngữ. Riêng ở Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn được du nhập khá muộn màng, từ đầu thập niên 30, từ đó, nó cứ mãi mãi giữ địa vị thống trị trong thơ. Những thành tựu huy hoàng của Thơ Mới đã điều kiện hoá cách cảm thụ văn học của chúng ta. Ý thức thẩm mỹ của chúng ta trở thành hẹp hòi, phiến diện và cứng nhắc. Trong khi nhiều nhà thơ vẫn còn loay hoay dưới bóng của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử... phần đông độc giả của thơ vẫn mang nguyên tâm trạng và tâm thế của thời 32-45.
Đồng ý với Nguyễn Hưng Quốc, nhưng tôi thiển nghĩ những năm gần đây cái sự “rất dầm dề” trong văn chương Việt còn có một ý nghĩa chính trị nữa. Sau Cách mạng tháng 8, văn chương lãng mạn ướt át bị Đảng cấm đoán, bị kết tội cá nhân chủ nghĩa, uỷ mị, yếu đuối. Lãng mạn bị tô đỏ thành “lãng mạn cách mạng” theo kiểu “rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí”. Thơ văn cách mạng thì phải viết sao cho “có thép”, có cờ đỏ và có cả gà, lợn, để vừa phục vụ chiến tranh, vừa ca tụng Đảng và giới lãnh đạo, vừa tăng gia sản xuất để nuôi cho guồng máy được mạnh mẽ. Sau 1975, cái nguyên tắc đó vẫn kéo dài cho đến khi “đổi mới”. Cái gọi là “đổi mới” thì chủ yếu là cái “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”. Trong cơ chế đó, giới lãnh đạo có vô số cơ hội vơ vét của công làm của riêng. Để có thể an tâm mà vơ vét, giới lãnh đạo duy trì một bộ máy sắt thép tinh vi, thẳng tay triệt hạ những thành phần bất đồng chính kiến. Mặc dù nguy cơ Trung Quốc xâm lăng ngày càng khẩn thiết, thơ văn bây giờ không cần “có thép”, vì giới lãnh đạo sẵn sàng cấu kết với Trung Quốc, tình nguyện cúi đầu để hưởng lợi cho cá nhân. Nói cho đúng, lúc này mà ai dám viết thơ văn “có thép” để lên án mưu đồ xâm lăng của Trung Quốc thì nhất định sẽ bị ăn đòn. Thơ văn bây giờ cũng không giương cao cờ đỏ, vì các nhà văn, nhà thơ cần viết để kiếm ăn, mà tuyệt đại đa số quần chúng lại chán ngấy loại văn thơ tuyên truyền lộ liễu. Thơ văn bây giờ cũng không cần có gà, lợn, vì không còn hệ thống nông trường quốc doanh hay hợp tác xã nông nghiệp như trước nữa, mà người dân tự mình làm lụng, kiếm ăn bằng đủ mọi cách khác nhau, và Nhà nước chỉ ra sức thu thuế. Thơ văn bây giờ trở nên cực kỳ “dầm dề” vì: 1. Đảng cho phép nhà văn, nhà thơ mặc tình mà than mây, khóc gió, miễn là đừng đụng đến những vấn đề “nhạy cảm” chính trị. 2. Người dân sau giờ làm việc mệt nhoài thì cần giải trí. Văn chương giải trí phải là thứ văn chương dễ nuốt, không nhức đầu, không khiến bận tâm. Những đề tài tình ái lăng nhăng, ngồi lê đôi mách, than mây, khóc gió vớ vẩn là những đề tài dễ nuốt nhất. Những thứ văn phong sướt mướt, dầm dề, nhẹ dạ... là những thứ văn phong dễ tiêu hoá nhất. 3. Nhà văn, nhà thơ thì cần làm vừa lòng độc giả, để kiếm ăn, nên sẵn sàng làm những tay đầu bếp dễ tính, xào đi xào lại những món dễ làm mà lại được nhiều khách hàng ưa thích. 4. Giới phê bình thì nếu không phải là tay sai của Đảng, thì cũng là những tay chuyên lăng-xê sách để lãnh tiền từ các nhà xuất bản. Nếu là tay sai của Đảng, thì họ phải phục vụ cho ông chủ, bằng cách vừa cổ vũ thứ văn chương “dầm dề” vô hại, vừa rình rập bắt lỗi, ngăn chặn những tác phẩm có dấu vết “bất đồng chính kiến”. Nếu là là những tay chuyên lăng-xê sách, thì họ sẵn sàng bơm phồng bất kỳ tác phẩm nào do các nhà xuất bản tung ra, tuỳ theo giá cả mà bơm nhiều hay ít. 5. Các nhà xuất bản thì hầu hết là những con buôn thứ thiệt. Đã bỏ vốn ra để in sách, thì chẳng ngu gì mà chịu lỗ, vì thế họ phải triệt để khai thác thị hiếu của khách hàng. Văn chương chỉ là những món hàng. Món nào bán chạy thì ra sức mà đầu tư vào để kiếm tiền. Thế thôi. Văn chương Việt Nam sẽ còn “rất dầm dề” cho đến khi nào thì chưa thể đoán được.
-------------- Bài liên hệ:
22.07.2009
[VĂN HỌC] ... 1. Từ trước đến nay, đa số nhà thơ/văn Việt Nam cho rằng họ sáng tác bằng cảm xúc. / 2. Từ trước đến nay, đa số độc giả Việt Nam nói rằng họ đọc văn chương bằng cảm xúc. / 3. Từ trước đến nay, đa số nhà phê bình và độc giả Việt Nam cho rằng tác phẩm văn chương hay thì phải giàu cảm xúc và phải gây nhiều cảm xúc nơi người đọc... (...)
21.07.2009
[VĂN HỌC] ... Vừa là nhật ký vừa là tờ báo lại vừa là diễn đàn, bản chất của blog là một thể loại hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử nhân loại. Nó là một sự tổng hợp. Mà tổng hợp cũng có nghĩa là xoá nhoà ranh giới... (...)
20.07.2009
[VĂN HỌC] ... Tôi cho rằng một bài văn hay, dù viết trên blog, trước hết phải dựa trên những sự kiện chính xác. Tất nhiên không cần phải chính xác một cách tinh vi như trong một bài nghiên cứu, nhưng ít nhất phải chính xác một cách căn bản. Sau đó mới nói đến cái hay, cái đẹp. Nếu anh viết một bài blog để ca tụng rượu vang của Pháp mà anh lại mô tả nhầm thành rượu whisky của Scotland, thì anh đừng trách tại sao người đọc cảm thấy mất sướng... (...)
19.07.2009
[VĂN HỌC] ... Ông Minh ơi, tình cảnh đoã ê chề rồi, moà ông coòng xúi “Đừng iu cô Qoảng”! Ông Vũ ơi, lồm eng chi moà loạ rứa? Iu thì cứ iu, toáng thì cứ toáng, nhưng chớ có toáng trậk lấk! Em nó hổng phê đao!... (...)
[VĂN HỌC] ... Không ai cấm anh yêu, tuy nhiên đừng đem cái tình yêu mông lung và ngang phè của anh ra giáo huấn thiên hạ. Võ Phiến rất hiểu về các vùng đất miền Trung thế nhưng có ai dám nói là nhà văn này không yêu miền Trung, không yêu Bình Định, Quảng Nam?... (...)
18.07.2009
[VĂN HỌC] ... Tôi thấy rõ ràng là, dưới ánh trăng vằng vặc, mình bước qua khỏi khung cửa, đi qua hiên, bước xuống bậc tam cấp, xuống sân, đi hết khoảng sân rộng, đến lùm cây rậm; và đứng dưới lùm cây, tôi kéo quần xuống... Đang tè, một tên sinh viên chạy ra, kề tai tôi, giọng hốt hoảng: “Thầy! Đi ra xa xa chút chứ sao lại đứng trước hiên nhà người ta đái vậy!” Vừa nói nó vừa đẩy tôi ra xa... Sau lần đó, tôi tởn... (...)
[VĂN HỌC] .... Ai cấm được anh có một tình yêu xứ Quảng của riêng anh? Một người đang ở xa, nhìn về. Phải chăng đã yêu mà cần phải yêu đúng “thuần phong mỹ tục” mới được phép? Tình yêu đâu có lỗi. Hay phải đừng yêu xứ Quảng?... (...)
17.07.2009
[VĂN HỌC] ... Tôi chưa có khả năng phân biệt Quảng Tín, Quảng Nam, Quảng Ngãi hay Quảng Trị. Quảng nào đối với tôi cũng là Quảng. Nên tôi gộp tất cả các Quảng vào hai chữ “miền Trung”, như tôi gộp hết Quy Nhơn, Bình Định, Tam Kỳ, Bồng Sơn, Sa Huỳnh cũng vào “miền Trung”. Vào một chữ “Trung” mà mình ưa. Vào một giọng Trung mà mình thấy lạ. Ưa vì cảnh vật đẹp. Ưa vì thức ăn ngon. Ưa vì chiếc lưng cong của đất nước hữu tình. Miền Trung là đất của tình cảm... (...)
[VĂN HỌC] ... Cảm xúc về xứ Quảng, về miền Trung, mà chỉ cần thay đổi địa danh thì có thể áp dụng cho bất cứ xứ nào, miền nào. Lối viết này ta thấy nhan nhản trên báo chí Việt Nam bây giờ. Đại loại như một bài báo nào đó tán tụng một nhà thơ X, nhưng nếu ta thử đổi tên nhà thơ X thành ra tên nhà thơ Y, thì đọc cũng lọt lỗ tai như thường. Đúng là “nhất dĩ quán chi”... (...)
[VĂN HỌC] ... Đọc bài của độc giả Trần Nguyễn, tôi thấy có nhiều chỗ rất là lúng túng. Khen bài “Về yêu xứ Quảng” của nhà văn Trần Vũ là một bài “thật hay” và “thành công”, độc giả Trần Nguyễn lại đưa ra những luận điểm không có sức thuyết phục chút nào cả... (...)
16.07.2009
[VĂN HỌC] ... Bài viết thể hiện tính chủ quan đầy cảm xúc của tác giả, chính đây là nét riêng của mỗi nhà văn, cách cảm của mỗi người về một vùng đất, từ giọng nói, đến tính cách, đến phong vị ẩm thực. Người đọc không cần biết đúng hay sai, chỉ thấy bài viết lôi cuốn, hấp dẫn người đọc từ ngôn ngữ đến hình ảnh là thành công... (...)
15.07.2009
[VĂN HỌC] ... Trần Vũ, sau khi tán sai về giọng Quảng, tán nhảm về bia Sông Hàn, tán trật về rượu Bầu Đá, thì kết thúc bằng câu nhắn nhủ: “Viết blog, cũng giống chế rượu Bầu Đá, cái cay phải lan tỏa. Phải làm ghiền.” Nhắn nhủ như vậy thì cũng thiệt là... rởm... (...)
14.07.2009
[VĂN HỌC] ... Mỗi lần ra miền Trung, tôi đều say mê giọng nói của người Trung, đặc biệt từ Quy Nhơn đến Đông Hà. Nghe giọng nói của họ, tôi thấy đặc chất Việt, đậm đà trong hơi thở, đặc sệt âm Việt, tính Việt, đến kẹo lại như món mắm xưa. Nếu giọng Huế thanh, trong như bát chè mạn và ngọt như bát chè sen, thì giọng Quảng nghe mới thật đã. Những Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi... (...)
13.07.2009
[VĂN HỌC] ... Nhiều người tiên đoán chính các blog sẽ là tên sát thủ của tất cả các tờ báo. Không phải ai cũng đồng ý. Nhưng có một sự thật: gần đây, số lượng các tờ báo phải bị đóng cửa hoặc đang sống ngắc ngoải khá nhiều. Kẻ thù chính là internet. Trong internet, kẻ thù chính là các blog... (...)
|