thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Ngày đẹp cho một cuộc hành hình | Ngôi trường ở góc phố | Một quyết định dễ dàng | Người chết có biết giờ giấc chăng?
 
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
 
KENNETH PATCHEN
(1911-1972)
 
Kenneth Patchen là một trong những nhà thơ và tiểu thuyết gia hàng đầu của Mỹ. Ông sinh ngày 13.12.1911 ở Niles, Ohio, trong một gia đình nghèo; bố làm công nhân cho các nhà máy thép ở thành phố Youngstown, Ohio. Patchen bắt đầu viết nhật ký từ tuổi mười hai; thời nhỏ đã từng đọc Homer, Dante, Shakespeare, Robert Burns, và cả Herman Melville. Say mê và luôn tìm cách phát triển năng khiếu văn chương và thơ ca của mình, ngay thời theo học ở Experimental College (do triết gia Alexander Meiklejohn sáng lập tại đại học Wisconsin), Patchen đã có một bài sonnet (“Permanence”) đăng trên New York Times [1929]. Sau chỉ một năm học đại học, ông bỏ trường, và ngao du khắp nơi, làm nhiều nghề lưu động ở Arkansas, Louisiana, Georgia... Thời học đại học, tại một buổi tiệc Giáng sinh ở nhà bạn, ông gặp rồi sau đó cưới Miriam Oikemus [1934, ở Sharon, Pennsylvania], người đã làm phong phú cho tác phẩm ông bằng những bài thơ tình bất diệt. Trước khi hai vợ chồng chuyển về San Francisco [từ những năm đầu của Phong trào Beat] gia đình Patchen sống ở Boston, Greenwich Village, New York, là nơi ông kết thân với nhiều nhà văn nhà thơ – kể cả Henry Miller, Anais Nin, e.e. cummings... Ngoài tai nạn thảm thương dẫn đến cái chết của cô em gái [1926] và trở thành một bi kịch thời thơ ấu của ông, năm 1937 ông gánh thêm một tai nạn ở cột sống khi cố gắng sửa xe cho một người bạn, những cơn đau buốt buộc ông chịu nhiều cuộc giải phẫu vô hiệu, và rốt cuộc ông phải mang thương tật suốt đời.
 
Nhiều nhà thơ Beat nhìn nhận ảnh hưởng của Patchen, cho rằng những kiểu “phản kháng thể nghiệm” trong thơ ông, trong những tác phẩm đồ hoạ và tranh vẽ trong các bài thơ cụ thể[*] và văn xuôi của ông là tiên phong trong đời sống văn nghệ ở Mỹ, và những ý tưởng của ông về vai trò của người nghệ sĩ rõ ràng có nhiều điểm tương đồng với trường phái Dada và trường phái siêu thực – mặc dù ông luôn luôn bác bỏ những kiểu gán ghép mà ông cho là không thích hợp.
 
Sinh thời Patchen được coi là một nhà thơ “vô sản” – một danh xưng ông phủ nhận ngay từ đầu – do thái độ sống cũng như khuynh hướng chính trị chủ hoà minh bạch và quyết liệt của ông ngay từ thời còn trẻ: cho dù sự ngưỡng mộ của người đọc đối với ông về sau có lên đến mức sùng bái, tiếng tăm ông chẳng bao giờ xứng đáng với tài năng và tác phẩm phong phú muôn vẻ của ông. Patchen là nhà văn luôn khai triển những thể loại mới, những bút pháp và hình thức sáng tác hiện đại: với các tiểu thuyết The Journal of Albion MoonlightThe Memoirs of A Shy Pornographer chẳng hạn, ý hướng thể nghiệm của ông rõ ràng là táo bạo. Một trong những nhà văn nhiệt tình ủng hộ Patchen là Henry Miller, với bài viết dài nổi tiếng “Patchen: Man of Anger and Light” [1946].
 
Ông từng hợp tác với John Cage dựng vở kịch truyền thanh thuộc loại thể nghiệm The City Wears a Slouch Hat [1942], và tuy ngày nay không ai tìm thấy những bài thơ Patchen đọc với phần nhạc của Charles Mingus được thu thanh, việc phát triển thơ ca jazz giữa hai nghệ sĩ lỗi lạc này từng gợi cảm hứng cho nhiều nhà thơ và nhạc sĩ jazz hiện đại, kể từ những năm 50s trở về sau. Năm 1967, Quỹ Nghệ thuật và Nhân văn Quốc gia Hoa Kỳ đã trao tặng Giải thưởng Văn chương NEA Literary Grant cho Kenneth Patchen vì những cống hiến cả đời của ông cho văn học Mỹ.
 
Kenneth Patchen qua đời ở Palo Alto ngày 8 tháng Giêng, 1972, để lại người vợ thân yêu Miriam [1924-2000] và một sự nghiệp đồ sộ gồm những tác phẩm thơ, tiểu thuyết, hội hoạ, âm nhạc và kịch nghệ.[**]
 
 
 
Trên: Bích chương và bìa đĩa hát của Patchen do ông tự tay làm, và cảnh Patchen đọc thơ với ban nhạc jazz của Charles Mingus. Dưới: Tranh và tranh thơ của Patchen. Miriam: Nàng Thơ đã làm nên toàn bộ tác phẩm của nhà thơ/hoạ sĩ Kenneth Patchen.
 
_________________________

[*]Những năm cuối đời, hai vợ chồng Patchen chuyển về sống một nơi “đạm bạc” ở Palo Alto, California, là nơi ông sáng tác vô số những bài thơ vẽ [painted poems, hay picture poems] trong khi ông nằm liệt giường.

[**]Ngoài những đĩa LP và CD ghi lại giọng đọc của Patchen, phần lớn do Folkways Records phát hành [Kenneth Patchen Reads with Jazz in Canada (1959), Selected Poems of Kenneth Patchen (1960), Kenneth Patchen Reads His Love Poems (1961)... – và gần đây nhất có thể là Rebel Poet in America (El Records, 2008, gồm hai giọng đọc thơ của Kenneth Patchen và Lawrence Ferlinghetti, có kèm theo nhạc jazz của Allyn Ferguson] Patchen để lại cho hậu thế trên bốn mươi ấn phẩm thơ, văn xuôi và kịch: Before the Brave [1936], First Will and Testament [1939], The Journal of Albion Moonlight [1941], The Dark Kingdom [1942], The Teeth Of The Lion [1942], Cloth of the Tempest [1943], The Memoirs of a Shy Pornographer [1945], An Astonished Eye Looks Out of the Air [1945], Outlaw of the Lowest Planet [1946], The Selected Poems of Kenneth Patchen [1946], Sleepers Awake [1946], Panels for the Walls of Heaven [1946], Pictures of Life and Death [1946], They Keep Riding Down All the Time [1946], CCCLXXIV Poems [1948], Red Wine and Yellow Hair [1949], Fables and Other Little Tales [1953], Poems of Humor and Protest [1954], Hurrah for Anything [1957], When We Were Here Together [1957], The Love Poems of Kenneth Patchen [1960], Because It Is [1960], Hallelujah Anyway [1966], But Even So [1968], Selected Poems [1968], Aflame and Afun of Walking Faces [1970], Wonderings [1971], In Quest of Candlelighters [1972], The Argument of Innocence [1976], Patchen's Lost Plays [1977], Still Another Pelican in the Breadbox [1980], What Shall We Do Without Us [1984], Awash with Roses: Collected Love Poems of Kenenth Patchen [1999], We Meet [2008], The Walking-Away World [2008].

 
_____________
 
 

Ngày đẹp cho một cuộc hành hình

 
Những tên mật thám trông giống như mấy tay quan toà già buồn bã
Giữa một phiên toà lạ lùng. Các vị ấy hất mũi
Chỉ về một anh Da đen đang co giật trong giây thòng lọng siết chặt;
Hai bàn chân hắn dang ra như hai cánh con quạ
Trước các ngài đáng kính phá ra cười khi hắn nghẹt thở
 
Tôi không quen biết con người da đen này
Tôi không quen biết mấy người da trắng kia
 
Nhưng tôi biết một trong hai bàn tay của tôi
Màu đen, và bàn tay kia màu trắng. Tôi biết rằng
Một phần con người của tôi đang bị bóp nghẹt,
Trong khi phần kia thì phá ra cười ghê rợn.
 
Cho đến khi mọi chuyện thay đổi,
Tôi sẽ không ngừng giết người; và sẽ không ngừng bị người ta giết.
 
 
 

Ngôi trường ở góc phố

 
Năm tới cỏ ngôi mộ sẽ che phủ chúng ta.
Bây giờ chúng ta đứng đây, và cười đùa;
Ngắm nhìn những thiếu nữ đi qua;
Đánh cá trên mấy con ngựa chậm; uống rượu gin rẻ tiền.
Chúng ta chẳng có gì làm; chẳng nơi nào để đến, chẳng có ai.
 
Năm ngoái là cách nay một năm; chẳng có gì hơn.
Hồi ấy chúng ta không trẻ hơn; bây giờ cũng không già hơn.
 
Chúng ta tìm cách làm mình trông có vẻ như những người trẻ;
Chúng ta chẳng cảm xúc gì sau gương mặt mình, cách nào cũng thế.
 
Chúng ta hẳn cũng không hoàn toàn chết khi chúng ta chết.
Chúng ta chưa bao giờ hoàn toàn là gì, kể cả làm người lính.
 
Chúng ta là những kẻ bị sỉ nhục, người anh em ạ, là những thằng bé bị ruồng bỏ
Những kẻ mộng du trên mảnh đất u ám và khủng khiếp,
Nơi nỗi cô đơn là con dao dơ bẩn kề dưới cổ.
Những ngôi sao lạnh canh chừng chúng ta, bạn thân ạ,
Những ngôi sao lạnh và những ả giang hồ.
 
 
 

Một quyết định dễ dàng

 
Tôi vừa xong bữa ăn tối
Tôi ra đường đi dạo một vòng
Trời đẹp
Ra đến ngoài và tôi bắt đầu huýt sáo
 
Không lâu sau đó
 
Tôi gặp một
Người đàn ông và vợ anh chàng cưỡi trên lưng
Một chú ngựa con với bảy
Đứa nhỏ lúp xúp chạy bên cạnh họ
 
Tôi nói chào và
 
Tiếp tục đi
Ngay lúc ấy tôi lại gặp một
Cặp khác
Lần này là với mười chín
Đứa nhỏ và tất cả bọn họ
Đều cưỡi trên lưng
Một con hà mã to đùng tươi cười
 
Tôi mời cả bọn về nhà mình
 
 
 

Người chết có biết giờ giấc chăng?

 
Lão già đặt ly bia xuống.
Này thằng con, lão nói,
               (và một cô gái bước lại chỗ bàn chúng tôi đang ngồi:
               nhân danh Jack Ki Tô xin chúng tôi mua cho ả ly rượu.)
Này thằng con, ta sắp nói với con chuyện này
Nó là loại chuyện không ai nghe nói bao giờ.
               (và cô ả nói, đêm nay em chưa xoáy được cái gì;
               hay anh và em kéo nhau về chỗ anh?)
Ta sắp kể con nghe về chuyện mẹ ta
Đi gặp Thượng đế.
               (và tôi rỉ tai cô ả: ta không có phòng nào,
               nhưng có lẽ...)
Mẹ ta bước lên ngay chỗ đỉnh cao của thế giới
Và Thượng đế cũng lên tới ngay chỗ bà và bảo
Như thế là rốt cuộc ngươi đã về nhà.
               (nhưng có lẽ sao?
               Ta nghĩ ta thích ở lại đây và chuyện trò cùng em.)
Mẹ ta bắt đầu khóc và Thượng đế
Quàng tay ôm quanh người bà.
               (nói chuyện gì?
               Ồ, cứ trò chuyện ... chúng ta sẽ kiếm ra cái để nói mà.)
Mẹ ta bảo giống như có một màn sương hiện ra trước mặt bà
Và ánh sáng toả khắp nơi và một giọng êm ái cất tiếng nói
Giờ thì ngươi có thể thôi khóc rồi đấy.
               (chúng ta sẽ nói chuyện gì đây cho qua hết một đêm?
               và tôi bảo tôi không biết.)
Giờ thì ngươi có thể thôi khóc rồi đấy.
 
 
 
---------------
“Ngày đẹp cho một cuộc hành hình”, “Ngôi trường ở góc phố” dịch từ nguyên tác “Nice Day for a Lynching”, “Street Corner College” trong Kenneth Patchen, Selected Poems (New York: New Directions Books, 1957). “Một quyết định dễ dàng” dịch từ nguyên tác “An Easy Decision” trong Kenneth Patchen, The Collected Poems of Kenneth Patchen (New York: New Directions Books, 1968). [“An Easy Decision” từng được nhiều nhà soạn nhạc phổ thành ca khúc và hợp xướng, trong đó có Stanley Hoffman với tác phẩm cùng tên viết cho dàn hợp xướng giọng kim hay cho giọng đơn ca mezzo-soprano và piano.] “Người chết có biết giờ giấc chăng?” dịch từ nguyên tác “Do the dead know what time it is?” trong Kenneth Patchen, Selected Poems (New York: New Directions Paperbook, 1957).
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021