thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Chữ thập | Một cái tủ nhiều ngăn hay là | Thỉnh cầu | Bài ca về một thi sĩ
 
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
RAFAŁ WOJACZEK
(1945-1971)
 
Rafał Wojaczek [đọc là Vo-yaa-tcheck] sinh ngày 6 tháng 12 năm 1945 tại Mikolow, một thành phố nhỏ thuộc vùng Šlask [Silesia, trung Âu, dọc theo hai bờ thượng nguồn sông Oder, giữa tây nam Ba Lan và bắc Tiệp Khắc] là một nhà thơ Ba Lan thuộc thế hệ sau chiến tranh. Sự nghiệp văn chương của anh bắt đầu trên tạp chí Poezja (1965) và diễn ra trong những năm xao động của một nước Ba Lan mới khi thế hệ trẻ ở đất nước này nhận ra là mình bị “mắc bẫy trong một hệ thống chính trị ngụy tạo”.
 
Anh trải qua một thời gian sáu tháng học văn chương ở Đại học Krakow, rồi bỏ trường và chuyển đến Wroclow là nơi anh làm đủ thứ nghề (kể cả nghề kiểm tra chuyển rác trong thành phố), tối ngày uống rượu, tối ngày làm thơ, lui tới và sống khá thường xuyên trong các bệnh viện, trước khi hoàn tất chuyến đi cuối cùng của mình bằng một “hình ảnh” ít nhiều đã được thể hiện trong bộ phim đen trắng [Giải thưởng Đặc biệt của Diễn đàn Phim châu Âu, 1999] mang tên Wojaczek Cuộc đời bị tổn thương của đạo diễn, nhà thơ Lech Majewski:[1] anh kết thúc đời mình ở Wroclow vào tuổi 26, ngày 11 tháng Năm năm 1971, để lại những dòng thơ (và một chân dung) từng làm nhiều người nghĩ đến Lautréamont và Rimbaud của Pháp, nếu không lan tới cả Lermontov, hay Essenin của Nga.
 
Thơ Wojaczek bàng bạc số phận cô đơn và phân hủy của con người, mang một nỗi ám ảnh không dứt về cái xấu và sự chết, với những ẩn dụ kỳ lạ có tác động hết sức mãnh liệt. Tôi ra đời năm 1945. Tôi có đi học, tôi lớn lên trong các thư viện, trên các nhà ga xe lửa, trong nhà người này người kia, ít nhiều, trong các quán rượu đủ loại và nơi này nơi khác. Tôi bơi trên sông, trên hồ, cả trên biển...[2] Ý thức tự hủy và đối kháng với tầng lớp tiểu tư sản của anh, cũng như chọn lựa sống bên ngoài những sinh hoạt văn học nghệ thuật “chính thống” của anh cuối những năm 60 không những đã tạo cho anh một chỗ đứng khá đặc biệt trong giới văn nghệ Ba Lan, mà còn để lại hình ảnh một kẻ khiêu khích một thời rất thu hút giới trẻ đất nước này. Nhà thơ, nhà phê bình văn học người Ba Lan Tymoteusz Karpowicz khi giới thiệu Wojaczek đã nhắc đến tính “lãng mạn toàn diện”, và cho rằng vì “thiếu một thế giới có thể chấp nhận”, nhà thơ “sinh nhầm thời đại” đã phải “quyết định tạo ra một thế giới cho riêng mình.”[3]
 
Những tác phẩm đã xuất bản: Sezon (Mùa, 1969), Inna bajka (Một chuyện kể khác, 1970), Nie Skończona krucjata (Cuộc viễn chinh chưa hoàn tất, 1972), Którego nie bylo (Kẻ không hiện hữu, 1972) và Utwory zebrane (Tuyển tập, 1976, với một bài giới thiệu dài và công phu của Tymoteusz Karpowicz — và một nhật ký viết trong nhà thương tâm thần, một tiểu thuyết và mấy bài viết các loại).
 
 
 

Chữ thập

 
Ta nằm ngang
Em nằm dọc
Em là núi non
Ta là thung lũng
Ta là Trái Đất
Em là Mặt Trời
Ta là lá chắn
Em là thanh gươm
Ta là vết thương
Em là nỗi khổ
Ta là đêm tối
Em là Thượng Đế
Em là lửa
Ta là nước
Ta trần truồng
Em ở trong ta
Ta nằm ngang
Nhưng không luôn thế
Em nằm dọc
Nhưng vào lúc này
Ta nằm dọc
Núi là cực khoái
Em nằm ngang
Cạnh ta
 
 
 

Một cái tủ nhiều ngăn hay là

 
Thần chết có bao nhiêu là ngăn tủ! — Trong ngăn đầu
Nó sưu tập những bài thơ của ta
Những bài ta viết nịnh bợ lấy lòng nó.
 
Chắc chắn trong ngăn thứ nhì
Nó lưu giữ cái lọn tóc
Từ thuở ta mới lên năm.
 
Tới lượt ngăn tủ thứ ba — tấm vải phủ
Có vết lấm bẩn đêm đầu của ta
Và bảng kết quả kỳ thi cuối khóa.
 
Trong khi trong ngăn thứ tư nó giữ các hoá đơn
Những lời cảnh cáo và những câu cách ngôn
“Nhân danh nước Cộng hòa”.
 
Trong ngăn thứ năm — các bài điểm sách, ý kiến
Những thứ nó đọc cho vui
Khi nó cảm thấy buồn.
 
Chắc nó phải có che giấu một ngăn khác,
Nơi nó cất giữ những thứ thiêng liêng nhất:
Giấy khai sinh của ta.
 
Và ngăn tủ thấp nhất và to nhất
— nó khó có thể kéo ra dễ dàng —
Sẽ là một cái quan tài đúng là dành cho ta.
 
 
 

Thỉnh cầu

 
Hãy cho tôi một cái chổi tôi sẽ quét rác một công viên
Hay một người đàn bà tôi sẽ yêu và tôi sẽ làm nàng mang bầu
Hãy cho tôi một tổ quốc tôi sẽ ca tụng
Cảnh vật hoặc chửi rủa chế độ hoặc tán dương chính phủ
Cho tôi gặp một người tôi sẽ nhìn ra cái vĩ đại
Hay khốn khổ của hắn và sẽ mô tả hắn bằng lời hay ho
Hãy cho tôi thấy những tình nhân tôi sẽ cảm động
Hãy cho tôi đến một bệnh viện đến một nghĩa trang công cộng
Hãy thu xếp cho tôi dự những sân khấu xiếc
Một cuộc chiến một vụ gặt ở quê một cuộc liên hoan thành phố
Hoặc hãy dạy tôi lái xe hay đánh máy chữ
Hãy ép tôi học các thứ tiếng và đọc báo
Và sau cùng hãy cho tôi rượu vodka tôi sẽ uống
Và rồi sẽ ói ra vì các nhà thơ phải được sử dụng làm như thế
 
 
 

Bài ca về một thi sĩ

 
Bởi vì lúc nào hắn cũng bị đánh như một đứa trẻ
Một thi sĩ, chẳng biết gì về nghệ thuật,
Siết chặt nắm tay bài thơ mình và đánh.
 
Hắn đánh một người đàn bà vì bà tắm rửa sạch sẽ,
Nặn mụn trên mặt và trang điểm.
Hắn đánh vợ hắn vì cô ta là đàn bà.
 
Và cùng lý do đó hắn đánh cả mẹ hắn.
Và hắn đánh cha hắn vì cha hắn theo mẹ.
Hắn nhổ toẹt vào chính quyền với những ẩn dụ thoắt đến.
 
Với vần thơ hắn đập bể cửa sổ[4], và với cú đá
ứng suất hắn đả thương đầu hạt mầm trong
Tử cung, như thế người mẹ sẽ không nhận ra con trai mình
 
Bởi cái ngu sẽ sinh ra theo cùng với nó.
Thi sĩ còn làm lắm điều khác nữa,
Nhưng đến khi ấy thì hắn không phải thi sĩ.
 
 
--------------
“Chữ thập”, “Một cái tủ nhiều ngăn hay là”, “Thỉnh cầu” và “Bài ca về một thi sĩ” dịch từ bản tiếng Anh của Jan J. Kaluza: “Cross”, “A Certain Commode or”, “The Request” và “Song about a Poet” trong Polish poetry — Rafał Wojaczek: Selected Poems, do Sherill Horward biên tập.
 
_________________________

[1]Lech Majewski sinh năm 1953 ở Katowice, học điện ảnh ở Lodz giữa những năm 70 trước khi định cư ở Hoa Kỳ năm 1981. Ngoài viết kịch bản và đạo diễn phim [The Knight, 1980 và The Gospel According to Harry, 1992...] ông còn phát triển kịch bản Basquiat (1996), đạo diễn sân khấu, viết nhạc kịch, trưng bày nghệ thuật sắp xếp, và là tác giả nhiều tập thơ...
 
Đạo diễn Lech Majewski và bích chương phim Wojaczek với
nhà thơ trẻ Ba Lan Krzystof Siwczyk trong vai Rafał Wojaczek.
 

[2]Adam Czerniawski, The Burning Forest Modern Polish Poetry (Bloodaxe Books, 1988), trích trong phần giới thiệu tác giả.

[3]Tiểu luận in trong Tuyển tập Rafał Wojaczek, 1976.

[4]Cảnh mở màn trong phim Wojaczek — với máy quay trong bóng tối từ từ tiến ra, cho thấy một mặt tiền có cửa sổ, đột nhiên có tiếng vỡ toang, và người xem thấy nhà thơ Rafał Wojaczek cũng từ trong bóng tối nhảy qua cánh cửa sổ vỡ toang ấy ra khỏi tòa nhà — phải chăng là một cảnh cảm hứng từ hình ảnh “đập bể cửa sổ” trong bài thơ này?


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021