thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
LÔNG & SỪNG [chương 2]

 

2.

 

Khởi đầu tôi là sừng. Đỏ chói lọi. Sừng tôi đâm vào háng phụ nữ. Phụ nữ tôn sùng tôi vì tôi cứng như sừng và làm cho họ được sướng thoả. Nhưng sừng tôi không chỉ để đâm vào háng phụ nữ. Trên đỉnh ngọn cương dương, tôi như thần linh, sấm sét. Khi sấm sét, bầu trời được soi sáng và muôn vật khiếp hãi. Sừng tôi đâm vào mắt họ và làm cho họ mù loà. Sừng tôi đâm vào tai họ và làm cho họ điếc. Sừng tôi đâm vào mũi họ và làm cho họ ngạt. Sừng tôi đâm vào miệng họ và làm cho họ câm.

Sau những cơn mưa nghịch thường, tôi ẩn mình trong nắng và những chiếc lá xanh. Sừng tôi mềm mại như một con sâu và đấy là lúc tôi biết hoa và lộc biếc, cơn gió và mặt đất, tất cả nhu thuận. Và để cho sự nhu thuận được vẹn toàn, tôi như một sợi lông bay...

Tên tôi là Giác Thành Mao.

Tôi đã đi qua những lục địa và đại dương.

Ngày ấy, trên con tàu ra khơi, tôi không say sóng nhưng tôi say đắm bầu trời và biển nước mênh mông. Tôi không còn là một đứa bé chăn trâu, tắm ao làng và những trò nghịch ngợm, đánh nhau hay chọc ghẹo phụ nữ sau luỹ tre. Tôi muốn thế giới dưới chân mình. Một cơn gió quét qua mọi ngõ tối trong tâm hồn con người. Gã bếp trưởng nói với tôi: “Mày sẽ nhìn thấy sự phục tùng không phải ở tao mà ở nơi những người tao phục vụ”. Tôi ngạc nhiên và tôi đã nhìn, nhưng tôi không thấy. Tuy nhiên, tôi không bao giờ quên câu nói khác thường ấy. Tôi trở thành một tay phụ bếp trước khi tôi hiểu được tôi và người khác.

Một trong những kinh nghiệm quí báu nhất trên con tàu hỗn tạp lênh đênh ấy là tôi học được cách làm cho tất cả những con người khác biệt, những tiếng nói, màu da khác nhau... có thể ngồi cùng với nhau và cùng thích một món ăn. Mặc dù lúc ấy tôi chưa nói được 52 thứ tiếng như bây giờ. Cũng như cử chỉ, món ăn có một mùi vị phổ quát cho cái ngon của mọi dân tộc. Sau này, tôi gọi đó là mùi người. Tôi còn khám phá ra, không những mùi người rất quyến rũ mà nó khốc liệt dẫn đến ước muốn huỷ diệt. Điều ấy giải thích vì sao tôi đã chọn làm người đầu bếp cho cả thế giới.

Ăn và ỉa, phương tiện và cứu cánh cho sự sinh thành. Mao Trạch Đông, Staline và chủ nghĩa cộng sản đã thành công trong việc kiểm soát cái ăn của con người, nhưng nó đã thất bại trong việc khống chế cái ỉa của toàn xã hội. Xú uế và tình trạng bệnh lý tinh thần do ỉa chảy và táo bón trở thành một đặc trưng trong các chế độ độc tài. Điều ấy càng thôi thúc tôi trở thành đầu bếp cho cả nhân loại.

Tôi vĩ đại và cao cả.

A dua là bản chất của cuộc sống bầy đàn, vì thế khi tôi tự viết sách ngợi khen tôi, bọn bồi bút muốn thơm lây cũng theo voi ăn bã mía. Chúng tán tụng tôi là vĩ nhân của mọi thời đại. Nhờ thế, sau này khi chết đi, tôi được đưa vào đền miếu thờ chung với các thành hoàng và Phật tổ.

Trước khi ngày ấy đến, tôi vẫn chăm chỉ rửa chén bát và lau chùi tàu mỗi ngày. Buổi tối, tôi đấm bóp cho gã bếp trưởng. Đôi khi gã ôm tôi nhưng chưa bao giờ lắp đít tôi. Tất nhiên tôi không thích chuyện ấy, nhưng tôi hạnh phúc được gã trìu mến. Gã gọi tôi là “cậu bé An Nam đáng yêu”. Khi cần, tôi ngoan ngoãn. Bếp trưởng dạy tôi chế biến thức ăn và dạy tôi cả về ngôn ngữ và văn hoá. Tôi được khai hoá bởi gã. Nhờ gã mà sau này, khi rời tàu, tôi vững vàng trước cuộc sống mới ở Pháp.

Trên các thành phố cảng xa lạ, tôi cũng được các thuỷ thủ rủ đi uống rượu và chơi gái. Đĩ không làm tôi hứng thú lắm, nhưng tôi tò mò về tính cách của phụ nữ ở những địa phương khác nhau. Họ cũng tò mò về tôi như một thứ động vật quí hiếm. Khi con cu tôi dựng đứng, họ bảo tôi thuộc về một dân tộc anh hùng. Tôi lẫm liệt. Tôi dai như đỉa. Tôi hút máu con người. Tôi sống nhờ máu người khác, bởi tôi trống rỗng. Tôi là cái thùng rác của nhân loại. Nhưng tôi kiêu hùng, bởi tôi là đỉa. Vì thế, tôi cũng sẽ chết như đỉa.

Khi rời tàu, gã bếp trưởng nói với tôi: “Mày đừng quên mày là An Nam.” Gã dạy tôi bài học về khiêm tốn để tồn tại, nhưng tôi là con rồng cháu tiên làm sao khiêm tốn được. Tôi sống trên mây. Tôi sống bằng huyền thoại.

Tôi đến Paris như một kẻ ăn mày và đã ra đi như một ông vua. Paris chỉ là chỗ tôi thể nghiệm. Paris huy hoàng nhưng không làm tôi choáng ngợp. Vì thế, dù tôi vẫn chỉ là một tên cu li thuộc địa, tôi coi Paris như bàn đạp. Và tôi đã đạp lên nó. Paris không hất tôi xuống mà Paris níu giữ bàn chân tôi trên nền đá tảng của nó. Từ người đi giao báo lúc ban đầu, một công việc không cần bất cứ một thứ kiến thức nào, tôi đã xin được làm phụ bếp trong một nhà hàng nhỏ nhưng sang trọng và tôi đặt bàn chân của mình lên. Paris dạy tôi lịch thiệp và tinh tế. Nhưng dù thế nào, bản chất tôi vẫn là một gã nông dân khôn lỏi. Tôi ma le ma cô ma cạo. Tôi tích cóp tiền bạc và trau dồi nghề nghiệp. Tôi siêng năng học hỏi. Tôi chăm chỉ làm việc. Tôi học lỏm cũng như được chân truyền. Tôi cá chép vượt vũ môn. Khi ấy tôi đã đủ vốn để thuê một chỗ mở nhà hàng riêng. Tôi liều. Tôi đánh cược với cuộc đời, vì tôi nghĩ, cùng lắm hết vốn lại đi làm thuê. Sao chết được.

Tôi muốn chứng minh cho gã bếp trưởng trên tàu ATF rằng, tao không quên mình là An Nam, theo cách của người An Nam, tao bách chiến bách thắng.

Tôi chọn cho mình một mô hình kinh doanh vừa có vẻ Paris vừa đậm chất thuộc địa. Đậm đà bản sắc dân tộc giữa lòng thế giới. Ít ra, điều ấy đã gợi được sự tò mò của những kẻ muốn khám phá. Bàn ghế, tôi đặt làm từ Sài Gòn chở sang, kết hợp tre và mây. Tôi cũng cho trồng trang trí những bụi tre nhỏ. Nhưng quan trọng nhất vẫn là một thực đơn vừa rất quen, vừa rất lạ. Bản hoà ca Đông – Tây. Cả mắm và bơ đều được sử dụng. Những người phục vụ, tôi yêu cầu mặc quần áo bà ba. Bọn Tây thực dân được đi du lịch Đông Dương tại chỗ. Sướng mê. Không chỉ có thế, món ăn ở nhà hàng Đông Dương mang lại một cảm thức mới cho khẩu vị, cũng như một sức mạnh mới cho cả thể xác lẫn tinh thần. Người ta càng trở nên bao dung, thân thiện bao nhiêu thì người ta cũng nồng nàn, mạnh mẽ hơn trong quan hệ thân xác bấy nhiêu. Cái tưởng chừng như nghịch lý giữa sự thanh thoát tâm hồn và khát khao thân xác đã được hoá giải. Người ta yêu nhau và làm tình hồn nhiên như muông thú. Tôi được tôn vinh như một biểu tượng của ánh sáng đến từ Phương Đông. Một sức mạnh của cả sơn dương và sư tử.

Trong hồ sơ Phòng Nhì của Pháp, khoảng thời gian tôi làm chủ nhà hàng này hoàn toàn bị bỏ trống. Cứ như thể tôi đang ở Nga hoặc Trung Hoa và làm một người Cộng sản cuồng nhiệt.

Đó là một nhân vật khác.

Mao Thành Giác, sau chuyến đi Nga học ở trường Đại học Cộng sản Phương Đông, đã được điều về Trung Hoa đào tạo tiếp để làm một phó bản cho Mao Trạch Đông ở Đông Dương.

Phần tôi, tôi tiếp tục hành trình của mình ở Pháp với sứ mạng trở thành một đầu bếp của thế giới.

Tình báo Pháp đã không phát hiện ra Mao Thành Giác biến thái thành Giác Thành Mao. Tôi không làm cách mạng vô sản, bởi tôi đã nhận ra bọn vô sản giáo điều, mê muội và tàn ác. Tôi khả đạo phi thường đạo. Đường bay của một cọng lông.

Cọng lông được chuyển hoá từ cái sừng đỏ khoe sắc như lông công. Lịch sử bị đánh tráo.

Tôi trở thành dân chơi thành Paris. Tôi là lông nhưng cái đồ gieo giống An Nam của tôi vẫn là sừng theo bản chất thần linh. Tôi đâm thủng mọi nỗi khát khao thầm kín của quí cô, quí bà... Tôi là giấc mơ. Tôi giải thoát mọi âm hộ khỏi niềm ẩm ướt cô tịch.

Phụ nữ Pháp vốn lãng mạn, nhưng đã có không ít những Élise, Marion, Sophie... được tôi đưa đến bến bờ của phóng túng dâm tình. Tôi là đỉnh. Ngọn cương dương sấm sét. Tôi mở cửa âm hộ và cho họ thấy hào quang của vũ trụ.

Nhưng trên tất cả, tôi chỉ nhớ Sophie bé bỏng... Cô bé sinh viên năm cuối của ngành tài chính. Chính cô mới là người làm hiển lộ tôi giữa muôn trùng đàn ông trên mặt đất. Và nước Pháp, khai hoá tôi bằng lưỡi và âm hộ của Sophie... Cái con cu, thằng giống, con chim, bòi, cặc... vớ vẩn hèn mọn của làng Mơ, xứ Mận đã biến thành dũng sĩ giác đấu tầm cỡ thế giới. Con chim hót trên cành tre đã được quốc tế hoá. Kinh sách Khổng Tử và thứ Nho học lạc hậu chỉ để làm tôi đòi cho bọn cai trị, tôi vất vào sọt rác. Chủ nghĩa Mác Lê vô địch, tôi cũng đem chùi đít. Tôi hiên ngang giương ngọn cờ giải phóng tình dục cho mọi loại thủ dâm các cái. Tôi phong độ chiều chuộng Sophie như Tây vì tôi có tiền. Nhà hàng Đông Dương là bệ phóng của tôi. Sophie say đắm tôi. Chúng tôi bay mỗi lúc có thể, bất kể ngày đêm. Lưỡi của Sophie. Miệng của Sophie. Vú của Sophie. Hĩm của Sophie. Là cánh của gió. Tất cả ôm lấy con chim thằng cu chăn trâu ở xứ Mận, làng Mơ bay lên. Tôi biến thành phượng hoàng. Con chim tôi kinh điển.

Nếu tôi không suy tôn tôi, ca tụng tôi... thì ai có thể suy tôn, ca tụng tôi như tôi chính là thế?

Tôi biết Mao Thành Giác về Đông Dương cũng sử dụng nghệ thuật tự ca tụng “lộng giả thành chân” của bọn hoạt đầu chính trị để chinh phục quần chúng. Nhưng tôi không lừa ai. Vì tôi là đỉnh thật. Ngọn cương dương sấm sét thật. Chính Sophie, Hélène, Élise... và những cô gái ở Châu Phi, Ấn Độ, Mỹ... đã cầu chứng tôi trong miệng lưỡi, âm hộ và những cơn cuồng dâm của họ. Tôi được say đắm bởi chính tôi chứ không phải quyền lực hay danh vọng của tôi.

Trước khi gặp Sophie, tôi đã biết nhiều đàn bà, nhưng tôi vẫn coi Sophie như người tình đầu của tôi. Sophie khai mở sự dâm đãng toàn diện trong tôi, cũng như cho tôi thoả mãn những khát khao sâu thẳm, chưa từng có. Những cuộc làm tình với Sophie điên dại và mất phương hướng. Chỗ nào trên thân thể cũng là bộ phận sinh dục. Hay nói một cách khác, cả linh hồn và thể xác chúng tôi cô đặc lại chỉ còn là một bộ phận sinh dục. Chúng tôi réo gọi nó. Và chúng tôi mất hút vào cơn chất ngất không bờ bến...

Sophie vẫn đi học. Tôi vẫn làm chủ nhà hàng. Chúng tôi chỉ có một nơi gặp gỡ là tình dục. Sophie không đòi hỏi gì khác. Tôi càng yêu quí Sophie hơn. Sophie đóng dấu lên đời tôi. Một dương vật vĩnh cửu.

Ngôn ngữ của chúng tôi chỉ là cái ướt át từ miệng hay con cu, cái hĩm.

Và rồi... Sophie tốt nghiệp đại học. Cô đột ngột bỏ Paris đi Sài Gòn. Tôi hoàn toàn không hiểu được quyết định này của cô. Sophie thực dân đến Sài Gòn thuộc địa làm việc cho Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux. Cô không hỏi tôi có muốn về Việt Nam hay không. Tôi không tin Sophie muốn truy nguyên bản lai diện mục tôi, mặc dù sau này Sophie có viết một cuốn sách về đàn ông An Nam.

Mất Sophie, tôi lao vào những âm hộ khác.

Cùng lúc tôi quen Élise và Marion. Hai cô là bạn của nhau và là khách hàng thân thuộc của tôi. Tuần nào họ cũng ghé nhà hàng Đông Dương ít nhất một lần. Vẫn là một người đàn ông hào hoa, tôi luôn có một chai rượu riêng đãi họ do chính tôi pha chế.

Trong lúc thân tình, tôi nói: “Xin lỗi cho phép tôi hỏi, không phải tò mò, nhưng chỉ để muốn thẩm định lại tác dụng của các món ăn ở đây, ngoài khẩu vị. Hai cô cảm thấy thế nào sau mỗi bữa ăn?”

Élise nói: “Anh nghĩ là chúng tôi được vỗ béo à?”

Tôi cười: “Vâng, theo một cách nào đó, tôi nghĩ thực đơn của tôi có khả năng ấy, nhưng tất nhiên không phải là tăng trọng.”

Lúc đó Marion mới lên tiếng: “Ồ, anh hỏi tôi mới để ý. Quả thật, có cái gì khác nẩy sinh trong người. Tôi cảm thấy hưng phấn sau mỗi bữa ăn. Trước đây, tôi nghĩ là do rượu.”

Tôi nói: “Đó chính là điều tôi muốn biết.”

Élise cười lớn: “Tôi thấy khoẻ hơn... mãnh liệt hơn... thèm muốn nhiều hơn...”

Tôi cũng cười: “Tôi hy vọng đó là lý do hai cô sẽ luôn trở lại.”

Marion nhìn tôi chăm chú: “Còn anh thì sao?”

Tôi nhìn lại Marion âu yếm hơn: “Tôi là người chế biến các món ăn đó. Vì thế, tôi biết tôi mạnh mẽ như thế nào.”

Élise chế giễu tôi: “Dòng giống của rồng.”

Tôi cười: “Đúng thế. Tôi hãnh diện vì điều ấy. Và tôi cũng muốn cho hai cô biết về điều ấy.”

Marion cười cười: “Anh chấp cả hai chúng tôi phải không?”

Tôi nheo mắt lẳng lơ: “Không dám. Nhưng quả là vinh dự nếu tôi được hầu hai cô.”

“Tại đây à?” Élise hỏi.

“Nhà riêng của tôi hay bất cứ đâu hai cô thích.” Tôi thản nhiên nói.

Rót thêm rượu cho hai cô, tôi bảo: “Rượu của tôi đóng góp ba phần tư vào khả năng tạo ra cảm hứng. Nhưng món ăn của tôi có thể góp đến hai trăm phần trăm vào sự duy trì nguồn cảm hứng đó.”

Marion có vẻ nghiêm túc: “Còn bản thân anh?”

“Khả năng tạo cảm hứng: cấp 4/5. Duy trì nguồn cảm hứng: 5/5.” Tôi nói chắc nịch.

Cả ba chúng tôi cùng cười ha hả.

Bữa đó, chúng tôi nhậu tới 2 giờ sáng. Tôi đưa Élise và Marion về nhà tôi. Chúng tôi làm tình tay ba.

Tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau một hai lần. Địa điểm thay đổi tuỳ thời tiết và sự cấp bách của những nguồn cơn bất chợt. Nhưng dù ở đâu, chúng tôi chỉ đạt đến cực khoái và sự bền bỉ của nó sau khi ăn uống ở nhà hàng của tôi. Đấy là sự khác biệt.

Có người hỏi tôi: có tình yêu không hay chỉ là tình dục? Một cách tương tự, tôi có nhân bản không hay tôi là thú vật?

Tôi không bận tâm để trả lời một câu hỏi ngớ ngẩn như thế. Bởi tôi biết Élise, Marion và cả Sophie nữa đều hạnh phúc và thoả mãn cùng tôi.

Phần tôi, thương hiệu nhà hàng Đông Dương ở Paris tiếp tục mang đến cho tôi những phụ nữ dâm đãng khác. Tôi không từ bỏ bất cứ cơ hội nào để chứng tỏ phẩm chất của thực đơn Đông Dương cũng như giá trị đích thực của cái sừng đỏ trong háng tôi.

Tôi giống như một con dê chúa phân phối niềm hoan lạc cho tất cả những con dê cái khác. Giữa lúc tràn trề năng lượng ấy, tôi ngửi thấy mùi hoang dã của châu Phi giữa Paris hoa lệ. Malika của Algeria xuất hiện. Mùi ngái ngủ. Mùi chiêm bao. Mùi thiên cổ hoang đường. Malika mê hoặc tôi bằng mùi con bò cái.

Đó là một đêm không có thực. Tôi lang thang ngoài đường ngửi mùi gió. Dưới ngọn đèn hiu hắt, vàng kệch, cô gái nâu dộng chân xuống đường theo một điệu nhảy mà tôi chỉ có thể liên tưởng đến những cái chân của bò rừng, trâu điên, ngựa hoang... dậm dật cơn động tình đạp trên đồng cỏ. Đôi chân của cô gái thoăn thoắt, điệu nghệ. Tôi đứng lại nhìn. Và dường như để tưởng thưởng cho sự ngưỡng mộ của tôi, cô đã nhảy ngập đầy hiện tại tôi, gợi dục và tưng bừng. Tôi lắc lư theo cô. Ngọn cương dương của tôi phập phồng.

Khi tôi ôm cô dưới bóng tối một bức tường khuất, mùi Malika tràn vào tôi như sóng. Nó không chỉ toát ra từ háng cô, mà khắp thân thể cô.

Mùi Malika ám ảnh tôi ngày đêm. Nhưng đến hơn một tháng sau tôi mới có cơ hội gặp lại Malika, dưới chân cột đèn hiu hắt, vàng kệch giữa Paris vắng tanh. Và cũng dưới bóng tối một bức tường khuất, con người lạc loài ôm lấy nhau và ẩn trú trong nhau.

Tôi không để mất Malika nữa.

Tôi hỏi Malika: “Em có muốn về sống với anh không?”

Malika nói: “Em thuộc về đường phố.”

Tôi bật cả gốc rễ và bập bềnh với Malika suốt mùa hè, bỏ bê nhà hàng cho gã thu ngân trông coi. Việc nấu nướng tôi nhờ tay đầu bếp phụ làm giúp.

Đêm nào tôi cũng xuống phố. Mùi đêm và mùi Malika phủ kín tôi, che lấp tôi với ánh sáng, chôn vùi tôi xuống đáy cơn sướng thoả, hoang đường.

Nhưng Malika đột nhiên biến mất khi mùa thu đến. Không lý do. Không từ giã.

Nỗi nhớ nhung Malika nấu nhừ tôi. Mùi Malika làm tôi vật vã. Tôi cố gắng lấy lại cân bằng. Nghiền ngẫm về mùi, nhờ thế, nghệ thuật ẩm thực về mùi của tôi ngày càng trở nên tinh tế và đậm đặc bản sắc Giác Thành Mao hơn.

Đấy cũng là thời gian “cái mu vĩ đại, con cu vĩnh cửu” được dân gian đúc kết theo truyền thống lập ngôn ở quê nhà cho mối quan hệ đầy tính bạo động và cách mạng này của tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên nó.

Trong lúc tôi vung vãi tình yêu và tinh trùng vô tư, vô ngại và vô biên... thì ở Đông Dương, gã Mao Thành Giác hoá thân của tôi lại gieo rắc hận thù và cày xới máu xương đồng loại nhân danh đấu tranh giai cấp. Hắn thề giữ con cu trong sạch cho tới khi được phong thánh. Thực ra, cũng chỉ là một trò gian lận. Tôi biết hắn gian dâm từ tư tưởng. Những người đàn bà qua tay hắn đều bị giết. Hắn tưởng hắn muôn năm, nhưng chính tôi mới là vĩnh cửu. Hắn là búa liềm oan nghiệt của cái chết. Tôi là cặc vĩ đại xiển dương sự sống.

Một vài tay nhà báo sành sỏi chuyện ăn uống phát hiện ra tài năng tôi. Họ viết bài về nhà hàng Đông Dương và những đặc sản mùi của tôi. Họ phỏng vấn tôi, nhưng tôi chỉ nói quanh co về triết lý và nghệ thuật ẩm thực. Tôi không tiết lộ cách chế biến cũng như nguyên liệu làm nên cái mùi đặc trưng của các món ăn. Tất nhiên họ chẳng bao giờ biết được mùi Malika đã là nguyên uỷ của tất cả hương vị trần gian trong các món ăn do tôi làm.

Thực khách đến với nhà hàng Đông Dương ngày càng nhiều. Tôi hỉ hả nhưng cũng vất vả hơn. Qua các bài báo, người ta có cảm tưởng chỉ có người thông minh mới biết ăn ở nhà hàng Đông Dương là sành điệu.

Một chính khách trò chuyện với tôi sau khi được tôi mời rượu, nói: “Không thể tin nổi tôi đã tránh được nỗi nhục trên bảo dưới không nghe chính là nhờ đặc sản Đông Dương của ông.”

Tôi cười: “Ngài sẽ còn bất ngờ hơn, nếu ngài uống hết chai rượu này.”

Hắn nói: “Tôi sẵn sàng trả tiền chai rượu đó.”

Tất nhiên đêm đó hắn say. Nhưng vài ngày sau, hắn quay lại. Gặp tôi, hắn giơ ngón tay cái.

Tôi nói: “Tất cả các chính khách trên thế giới cần được ăn ở đây và uống loại rượu này.”

Hắn gật đầu lia lịa: “Nhất trí.”

Tôi nhủ thầm, mả mẹ mày, mày có phải đảng viên đảng Cộng sản không mà cái gì cũng “nhất trí”? Nhưng tôi nói với hắn: “Ngài quả thật đáng được một phiếu của tôi.”

Hắn rối rít: “Tốt. Tốt.” Đúng khẩu khí cộng sản.

Tuy vậy, tôi cũng hỏi lại: “Ngài là đảng viên đảng Cộng sản?”

Hắn vội vã: “Đúng. Đúng.”

Tôi hỏi: “Liệu đảng Cộng sản có thể nắm quyền ở Pháp không?”

Hắn nói: “Ngày ấy sẽ đến.”

Tôi câu khách: “Vâng, tôi sẽ bầu một phiếu cho ngài.”

Kỳ lạ thay, từ đó có rất nhiều thực khách là đảng viên Cộng sản đến với nhà hàng tôi. Tôi không biết họ cần bồi dưỡng cho sinh thực khí của họ hay đánh giá tôi là một cảm tình viên của đảng.

Việc dây dưa với đám Cộng sản này khiến tôi bị Phòng Nhì Pháp chú ý. Một ngày xấu trời, sao Thiên la, Địa võng chiếu, hạn tam tai... cảnh sát Paris khám xét nhà tôi vì thằng Mao Thành Giác ở Trung Hoa tổ chức đại hội vô sản ba nước Đông Dương. Phòng Nhì Pháp nghi ngờ tôi làm kinh tài cho bọn này. Trong cuộc khám xét, cảnh sát phát hiện một hầm rượu Vodka ngâm chim sẻ. Tôi không bị tù nhưng nhà hàng Đông Dương phá sản.

Tình cờ gặp lại bạn cũ người Algeria trên chiếc tàu ATF thuở nào đang lang thang những ngày cuối cùng ở Paris, tôi quyết định theo anh ta qua Algiers làm lại cuộc đời.

Một bất ngờ lớn làm tôi phát cuồng. Tôi gặp lại Malika yêu dấu. Nàng là em út của người bạn.

Tràn đầy hứng khởi, nhà hàng Pieds Noirs nhanh chóng được khai trương. Hai anh em Malika phụ giúp tôi. Ngoài khách Tây thực dân, nhà hàng Pieds Noirs cũng thu hút được không ít dân thuộc địa, mặc dù đây là xứ sở đạo Hồi. Tôi nắm bắt được cái nhu cầu khoe mẽ văn minh của những kẻ muốn đồng hoá mình với tầng lớp thống trị và tôi khai thác nó. Ở Pieds Noirs chỉ bán những đồ ăn Tây và rượu Tây. Pieds Noirs tiêu biểu cho sự sang trọng Tây phương.

Ăn ngủ với Malika, tôi cũng biết phụ nữ Hồi giáo không chỉ có khăn trùm đầu và quần áo kín mít, họ thích những nội y đẹp và gợi cảm. Nhà hàng Pieds Noirs trưng bày và giới thiệu những sản phẩm thời trang Paris mới nhất cho chị em phụ nữ. Ăn ngon và nhìn đã con mắt chính là châm ngôn của Pieds Noirs.

Không giống ai là đặc trưng của tất cả những gì thuộc về Giác Thành Mao. Pieds Noirs thành công ngoài mong đợi. Tôi vẫn là một ông chủ chịu chơi tới bến. Giờ đây, bên cạnh Malika mà độ nồng nàn không hề phai nhạt, tôi có thêm ba cô gái màu nâu để thoả mãn sự vô độ của mình. Tôi vẫn cần quảng bá chất lượng thực đơn của Pieds Noirs qua hình ảnh một ông chủ phong độ ngoại hạng. Bọn săn gái ở Algeria kính trọng tôi và họ không thể không cần đến rượu và mồi của Pieds Noirs để chấn hưng khí lực đàn ông. Tất cả thực khách của Pieds Noirs đều biết giá trị cốt lõi của Pieds Noirs là gì.

Tuy nhiên, chính tôi lại không nhận thức được nguy cơ tiềm ẩn ngay trong cuộc sống của mình. Các cô gái đến với tôi đều được toại nguyện và sướng thoả, nhưng sự tham lam và ghen tuông của họ thì không thể kiểm soát. Nhà cách mạng chân chính vì hạnh phúc con người và vĩ đại nhất của An Nam đã bị phản bội bởi cô gái được ông ta mê say nhất.

Trong lúc tôi xả thân cho mọi nỗi niềm thầm kín trong háng của quí cô thì Malika âm thầm thâu tóm nhà hàng. Thật ra, tôi không quan tâm đến vấn đề tiền bạc hay làm giàu cho bằng khát khao thể hiện sự thống trị của mình trong thị hiếu ẩm thực của công chúng. Vì thế, tôi giao việc quản lý nhà hàng cho anh em nhà Malika sau khi mô hình hoạt động của nhà hàng đã vào nề nếp. Cũng vì thế, Malika muốn độc chiếm tôi. Nhưng sứ mạng tôi, được mặc định bởi lịch sử, phải phụng hiến cho mọi cơn nứng tình của nhân loại, tôi đã không ngừng sáng tạo và bồi đắp sự hưng phấn cho cộng đồng bằng tất cả tài năng và sức lực tôi. Tôi toàn tâm toàn ý nghiên cứu chế biến những thực phẩm có khả năng kích thích và tăng cường sức mạnh tình dục. Hạnh phúc của tôi là sự thoả mãn cho tất cả đàn ông và đàn bà. Tôi coi tiền bạc là cái hiển nhiên. Nhưng Malika coi tiền bạc là chìa khoá của cuộc sống. Cô muốn nắm giữ cái chìa khoá ấy của tôi. Sau lưng cô là cha mẹ, anh em, họ hàng nội ngoại... như một đàn kiến, miếng bánh của tôi dẫu sao cũng chỉ có giới hạn. Khi người Pháp trao trả độc lập cho Algeria và họ rút về nước, cũng là lúc nhà hàng Pieds Noirs bắt đầu quá trình tàn lụi của nó. Chủ nghĩa thực dân cáo chung trên toàn thế giới, tôi không phải thực dân nhưng ăn theo thực dân cũng khánh tận.

Khi ấy, Mao Thành Giác ở Đông Dương đã trở thành anh hùng cách mạng vô sản. Hắn được tôn thờ như thần thánh ở khắp Liên bang Đông Dương. Mao Trạch Đông gả cô em họ xa cho Mao Thành Giác để ràng buộc hắn. Nhưng người vợ này cũng như mọi phụ nữ khác trong đời Mao Thành Giác không bao giờ có trong lý lịch. Tất cả những người đàn bà đi qua đời hắn chỉ là tin đồn. Cũng như tôi, Malika không có tên trong hồ sơ Phòng Nhì Pháp.

Giấc mơ của tôi ở Phi châu tan biến.

Tôi không buồn như lần lạc mất Malika ở Paris, nhưng tôi trống rỗng.

Leo lên bất kỳ một chiếc xe khách nào, đến bất kỳ một nơi nào đó, tôi chạm trán với một Phi châu buồn bã, uể oải. Tôi và Phi châu khô héo, mặc dù mùi Phi châu vẫn ám ảnh tôi. Mùi Phi châu như cỏ cháy. Cháy. Khắp Phi châu bốc mùi. Tôi đi qua mọi hang cùng ngõ hẻm của Phi châu mông muội và nhếch nhác. Mùi Phi châu ngai ngái như mùi rừng. Tôi hít thở Phi châu. Tôi tìm thấy tôi trong tận cùng Phi châu. Tôi và Phi châu ôm ấp nhau. Nhưng đôi khi, tôi cũng cảm thấy như mình mất tích. Tôi không còn là tôi nữa. Tôi biến thành mùi. Mùi tôi là mùi Phi châu rừng rú. Tôi không biết tôi đã lang thang bao lâu trong lòng Phi châu. Một đêm, tôi thấy mình trơ trọi giữa một chòi lá, mùi Phi châu khăm khẳm, tôi nhớ đến các món ăn mình đã chế biến. Tiếng gọi của bao tử làm tôi tỉnh táo. Tôi phải quay về. Tôi phải ăn để vực đạo.

Tôi không muốn làm và ăn ở Algeria nữa. Ở đâu cái làm và ăn của tôi có thể được thể hiện huy hoàng tráng lệ nhất?

Aaaaaaaaaaaaaaaaa... Tôi tìm thấy rồi.

Tôi xuống tàu đi Ấn Độ, chỉ vì Kamasutra. Tố nữ kinh của Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã độc quyền rồi.

Ấn Độ mênh mông và nghèo đói. Tôi cần phải bắt đầu như thế nào? Dường như để tìm một con đường, ở Ấn Độ, người ta thường ngồi xuống bên một gốc cây. Và tôi cũng thế, tôi ngồi xuống dựa lưng một gốc cây đâu đó gần sông Hằng. Và tôi trầm tư. Đâu là con đường của tôi? Ăn và sống. Sống và chết. Sung sướng và đau khổ. Tôi có giác ngộ được không? Năm ngày đầu tiên, tôi nhịn đói. Tôi nghĩ tôi có thể giống như một khúc cây khô. Tôi không tìm được định mệnh của m´nh, nhưng định mệnh đã tìm tôi. Có một cô gái mỗi ngày mang cho tôi một bầu sữa. Tôi không biết đó là thiên thần hay ma nữ. Đến ngày thứ mười, tôi mới nhìn thấy mặt cô ta. Tôi vẫn ngồi đó cho đến ngày thứ bốn mươi chín. Lòng tôi trống rỗng. Có tiếng nói trước mặt tôi: “Ông mở mắt được chưa?” Tôi thấy kỳ lạ và tôi mở mắt. Một cô gái mặc sari màu xanh da trời, da nâu đang nhìn tôi, trên tay cô còn cầm bầu sữa. Tôi nói: “Tôi đã mở mắt rồi.” Tôi cam đoan đây không phải là một công án thiền của thần linh thử thách tôi. Bị chấn động bởi câu hỏi khác thường đó, tôi mở mắt nhưng không phải huệ nhãn. Đôi mắt trần tục của tôi nhìn thấy cô gái và tôi biết đó là cô gái của tôi.

Cô gái dẫn tôi về nhà. Ở đó, tôi gặp ông anh lớn của nàng, người đàn ông cầm búa. Tôi bày tỏ sự biết ơn của mình với cô gái và gia đình. Ông anh của nàng giơ cái búa lên: “Mày biết cái này để làm gì không?” Tôi nói: “Để đóng đinh hoặc nhổ đinh.” Ông anh nghiêm mặt: “Nó cũng có thể đóng vào đầu mày.” Thêm một lần nữa, tôi cam đoan đây không phải là một công án thiền của thần linh gửi đến. Tôi sợ hãi nhưng cố bình tĩnh nói: “Tôi sẽ cưới cô gái này nếu gia đình cho phép. Tôi sẽ làm việc.”

Tôi có khả năng thuyết phục người khác. Và tôi đã thuyết phục được người cầm búa, một “bố già” lừng lẫy dọc theo dòng chảy sông Hằng hai trăm dặm, chấp nhận tôi không những như một thành viên mới trong gia đình, mà còn bảo trợ nhà hàng Sông Hằng của tôi ra đời không lâu sau đó.

Người đầu bếp của thế giới là tôi đã cung hiến tài năng mình cho gia đình cô gái. Bữa ăn đầu tiên do tôi chế biến và phục dịch đã làm những người Ấn Độ chất phác ngạc nhiên, bởi tôi không phải Ấn Độ nhưng đã làm cho khẩu vị Ấn Độ của họ trở nên tinh tế và nồng nàn hơn. Bữa ăn thứ hai của tôi dẫn dắt họ đến một thế giới rộng mở hơn với chút hương vị Tây phương, nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc cà ri. Đến bữa ăn thứ ba thì họ biết tôi là người không thể thiếu trong gia đình họ. Và bữa ăn thứ tư đã đủ thuyết phục họ tin rằng tôi là đầu bếp số một Ấn Độ.

Amanat thuộc về tôi và tôi thuộc về Ấn Độ huyền bí.

Tôi không truy tìm đạo dưới gốc cây nữa, báu vật Ấn Độ Amanat là mật tông của tôi về con đường giải thoát. Nàng mười bảy tuổi và mãi mãi mười bảy tuổi. Sung mãn như sông Hằng và khích động như Himalaya.

Rút kinh nghiệm với Malika, tôi không để cho Amanat làm bất cứ điều gì dính tới lãnh vực kinh doanh của tôi. Nhiệm vụ duy nhất của nàng là thực hành Kamasutra ở chính nơi đã sản sinh ra nó. Hơn thế, tôi còn muốn thông qua Amanat để thực nghiệm một tình dục tâm linh. Nhất thể hoá với vũ trụ. Sáng thế và tự huỷ. Tôi đã xây cho nàng một biệt phủ có hồ bơi. Tất cả các tư thế của Kamasutra đều được tôi cho làm phù điêu trên tường.

Việc kinh doanh ở nhà hàng Sông Hằng không cho tôi nhiều thời gian với Amanat. Mỗi đêm, thế giới bên ngoài của tôi khép lại sau mười giờ. Tất cả mọi người làm trong biệt phủ được nghỉ việc. Chỉ còn tôi và Amanat với các tư thế của Kamasutra. Cũng không đơn giản để thực hành các tư thế này, nhiều kiểu rất khó và đòi hỏi phải có sức khoẻ. Nhưng Amanat là thần linh của tôi, nàng hành động trong tôi như thể một động lực tự sinh. Tôi thuần phục mọi khát khao thầm kín và siêu việt theo tinh thần của Bhakti yoga, thành kính và hiến dâng. Chúng tôi chìm đắm vào nhau và ngây ngất trong sự linh thánh của khoái lạc. Amanat đầy đặc và trong suốt. Tôi đi qua ba nghìn thế giới của chư Phật bằng cửa mình của Amanat. Tôi thấm đẫm dòng chảy nhân loại. Tôi bú liếm và uống hết ngọn nguồn Amanat. Sơ khai và hoằng hoá dâm dục, phóng túng và siêu thoát.

Bởi sự hồn nhiên, Amanat mang lại cho tôi cái nhục cảm thuần khiết. Tôi tràn trề sinh lực đàn ông. Ấn Độ giúp tôi đi sâu vào bản thể mông lung của mình. Tôi thấy tôi trọn vẹn trong đáy vực Amanat.

Đêm nào cũng yêu đương làm tình miệt mài với Amanat, nhưng mỗi sáng tôi vẫn thức dậy như ánh sáng mặt trời tươi tắn. Amanat cũng thế. Chúng tôi không hề mệt mỏi. Lồng ngực tôi khoáng đạt như bầu trời trong lành. Tôi hạnh phúc. Trần gian của tôi ngọt ngào.

Cũng như ở Algeria, phong tục tập quán Ấn Độ không cản trở được nhà hàng Sông Hằng phát triển, tôi cho mở thêm chi nhánh tại Agra gần đền Taj Mahal. Tôi muốn cho thực khách của mình nhấm nháp hương vị tình yêu của hoàng đế Shah Jahan với nàng Mumtaz Mahal yêu quí bằng một thực đơn không thể nào hưng phấn hơn. Người ta đồn rằng, các cặp vợ chồng vô sinh muốn có con, không gì bằng đến viếng Taj Mahal và ăn tại nhà hàng Sông Hằng, đàn ông sẽ mạnh mẽ và phụ nữ sẽ thụ thai. Quái ác hơn, người ta còn truyền tai nhau muốn sinh con cầu tự thì hãy đến với Giác Thành Mao, ông chủ nhà hàng Sông Hằng, sẽ được toại nguyện.

Tôi trở thành nhà từ thiện phân phát tinh trùng cho những phụ nữ hiếm muộn. Làm từ thiện đã vui, được làm tình với những phụ nữ xa lạ nhưng đầy lòng kính tín và ngưỡng vọng còn vui thú hơn gấp bội. Tôi không quan tâm đến nhan sắc. Hẳn nhiên, ân hưởng phụ nữ đẹp thì quá sướng, nhưng cái thiêng liêng mà những phụ nữ khát khao sinh nở tạo ra còn trên cả tuyệt vời. Nó nâng tôi lên hàng thần thánh, nhất là khi họ khám phá tôi có một sức mạnh vô song, một con cu kỳ vĩ và một nghệ thuật làm tình siêu đẳng. Họ gọi tôi là thần đụ.

Ông chủ nhà hàng Sông Hằng nổi tiếng hơn nhà hàng Sông Hằng, vì ông đã là thần. Amanat không vì thế mà ghen tuông. Thậm chí, nàng còn hãnh diện vì đã sở hữu tôi. Dẫu sao, tôi không bao giờ sao nhãng cúc cung tận tuỵ phục vụ nàng. Đàn bà ghen tị với nàng, trong đó có vợ của người cầm búa. Bà ta còn trẻ và qua những món ăn tôi chế biến, cả hai vợ chồng bà đã được cung ứng đầy đủ năng lượng cho những lạc thú trần gian của mình. Nhưng tiếng tăm của tôi khiến bà sinh lòng tà. Tôi vốn là kẻ quen làm từ thiện nên không từ chối một ai, bà được tôi đáp ứng trong mọi dịp khi người cầm búa đi vắng. Vụ lang chạ này không qua mặt được người chồng. Nhưng tôi đã là người nổi tiếng, ông anh vợ không thể thủ tiêu tôi bằng búa. Ông ta có tiền, vì thế ông và những gã đàn ông bị cặm sừng khác đồng loạt ký tên đưa tôi ra toà.

Tôi có nhiều tiền hơn, nhưng tôi là người ngoại quốc, tôi không thể chống lại một đám đông cuồng nộ. Những người đàn bà tiếc rẻ tôi, họ bao vây phiên toà nhưng nước mắt của họ không cứu được tôi khỏi án phạt 3 năm tù giam.

Một lần nữa, tôi mất hết tài sản.

Với tài nấu nướng, tôi được giao phụ trách bếp ăn cho bọn cai tù và được hưởng một qui chế đặc biệt, có phòng riêng đầy đủ tiện nghi và được đi lại tự do trong khuôn viên trại giam, bù lại tôi phải cho mấy thằng cai ngục đồng tính bú liếm con cu thần thánh sống mãi trong sự nghiệp của mình. Tôi không có chọn lựa nào khác. Tuy nhiên, tôi hoàn toàn vô can trong các vụ cưỡng hiếp tù nhân nữ trong trại giam do bọn cai tù mất kiểm soát gây ra. Thực phẩm tự nó vô tội.

Tài năng và bản năng của tôi cũng được các chị em trong tù biết đến. Mỗi khi có dịp đi qua các phòng giam nữ, họ đều gào lên: “Cho xem hàng.” Tôi phải làm sao, thần linh ơi?

Vì lòng nhân đạo, tôi kéo thằng nhỏ ra khỏi quần, lúc lắc giữa hai hàng quân reo.

Bọn cai tù bảo tôi làm mất ổn định trật tự trại giam. Chúng xử lý tôi bằng cách không cho tôi ra ngoài nữa. Tôi hơi buồn. Nhưng các chị em bực bội. Họ la hét đòi thả tôi ra. Bọn cai tù nhận thức được rằng tôi không phải kẻ gây náo loạn, mà chính tôi là một sứ giả hoà bình. Tôi mang niềm vui đến cho tất cả. Sự có mặt của tôi bên ngoài các phòng giam nữ giúp họ thoải mái hơn trong tù ngục. Trật tự được duy trì.

Đôi khi, tôi cũng cho chị em thò tay ra ngoài song sắt sờ mó thằng cu vĩ đại muôn năm của mình. Điều này tạo nên một cân bằng kỳ diệu cho chính tôi và cả cho tất cả chị em thiếu thốn tình dục. Ban giám đốc nhà giam đánh giá cao tôi. Tôi đang biến nhà giam thành thiên đường.

Sự ái mộ quá đáng làm hại tôi. Hết ba năm, ban giám đốc không cho tôi ra tù với lý do tôi chưa được cải tạo tốt. Bọn khốn này bắt tôi ký hợp đồng lao động thêm một năm nữa để hợp thức hoá việc giữ tôi lại, gọi là thời gian thử thách. Chúng chế ra luật giam giữ tôi vì tôi thấp cổ bé họng. Tôi không thể nhờ luật sư giúp. Dẫu sao tôi cũng được an ủi vì tất cả chị em đều vui mừng khi biết tôi ở lại với họ. Họ cởi áo khoe ngực cho tôi nhìn ngắm và chào mời bằng hai tay nựng nịu bầu vú. Tiếng rú động cỡn của họ đã giải thoát chúng tôi khỏi thực tại tù đày, mỗi khi tôi bóp vú một ai đó.

Một tin buồn khiến tôi đột nhiên mất mọi cảm hứng. Tình cờ tôi đọc được tin Mao Thành Giác chết ở Bắc Kinh vì tiêu chảy trên một tờ báo tiếng Anh gói thực phẩm, trong lúc hắn ở đó để học tập kinh nghiệm phong trào toàn dân diệt chim sẻ do đích thân Mao Trạch Đông phát động.

Tôi không diễu hành qua các phòng giam nữ nữa. Cái chết của Mao Thành Giác làm tôi hụt hẫng. Như mất đi bản thể, tôi phiêu diêu mờ ảo.

Chỉ mãi đến khi qua Mỹ, tôi mới biết Mao Thành Giác bị Mao Trạch Đông đầu độc chết vì có ý kiến phê phán chiến dịch diệt chim sẻ của ông. Một Mao Thành Giác khác được Mao Trạch Đông phục dựng theo hình ảnh của ông ta. Mao Thành Giác này được Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa về ngã ba biên giới ở Kontum nằm vùng chờ thời. Tôi thực sự không biết hắn chờ đợi điều gì? Có thể một ngày nào đó, Mao Trạch Đông thôn tính Đông Dương, Mao Thành Giác sẽ là con bài của ông ta?

Tôi chỉ còn một mình trên quả đất. Giác Thành Mao không quê hương.

Rồi cũng đến ngày tôi ra tù. Tất cả các nữ phạm nhân đều khóc như bố chết. Lần cuối cùng đi qua hai dãy phòng giam của họ, tôi vung vẩy cặc và quì xuống vái lạy tạ từ tất cả vú vê và khe suối cạn dòng.

Tôi lang thang lên vùng cực bắc Ấn Độ, qua Nepal và đến viếng công chúa hậu duệ nhà Tất Đạt Đa Cồ Đàm ở Kathmandu. Tôi đi một vòng các thánh tích Phật giáo, cảm nghiệm sâu sắc hơn về tính lịch sử và triết lý cuộc sống. Nhưng tôi không thể sống khác với cách mình đang sống.

Ở Nepal, tôi gặp một cô gái bồi bàn trong phòng ăn của khách sạn. Da nâu và thanh tú. Tôi hỏi cô ta có muốn sang Mỹ với tôi không? Cô ta hỏi lại: “Làm thế nào tôi có thể đi Mỹ với ông được?” Tôi đáp: “Chỉ cần cô đồng ý, mọi việc tôi lo.” Nhưng cô bảo: “Tôi sống ở đây cũng được mà, nước Mỹ không phải là giấc mơ của tôi.” Tôi nói: “Nếu tôi ở lại thành phố Kathmandu này lập nghiệp, cô có vui lòng lấy tôi không?” Cô cho rằng tôi đùa. Nhưng tôi không đùa. Tôi thích vẻ đẹp dịu dàng trong sáng của cô. Cô nói cô không tin một người đàn ông mà ngay lần đầu tiên gặp cô đã đòi cưới. Tôi nói tôi tin vào khả năng phán đoán của mình. Cô cười ngoan hiền: “Lần này thì ông sai rồi.” Đêm đó, tôi say và ngủ một mình. Không có gái.

Tôi kết bạn với một nhà sư Tây Tạng. Mỗi sáng, tôi đến chùa Khỉ đàm đạo với ông. Tôi nói tôi thích thơ Milarepa. Nhà sư đọc cho tôi nghe một số bài của hành giả này bằng tiếng Tây Tạng. Ông cũng đọc thơ của ông. Khí phách và nỗi niềm lưu vong như mây núi Himalaya bay, mặc dù thơ ông vẫn là hơi thở của đạo hạnh bồ tát. Tôi cũng cảm nhận được rằng, tự do chính trị cũng có nghĩa là tự do tín ngưỡng và một nhà tu chân chính bao giờ cũng tự do một cách nội tại, bất kể hoàn cảnh nào. Đôi khi ông nhắc đến Mao Trạch Đông và nỗi đau mất nước. Ông tin rằng kiếp nạn của dân tộc Tây Tạng sẽ chấm dứt khi chính quyền Cộng sản sụp đổ, đạo Phật sẽ phục hưng trên toàn cõi Trung Hoa. Thời gian này, tôi học được một số mật chú mà sau này tôi có dịp đặt tên cho các món ăn của mình ở New York.

Buổi tối, tôi về ăn trong nhà hàng khách sạn và chiêm ngắm cô tiếp viên xinh xắn. Tôi nói với cô gái: “Tôi có thể nấu ăn cho cô, nếu cô mời tôi về nhà.” Cô gái bảo cô không có nhà. Tôi nói tôi cũng không nhà, nhưng tôi có thể kiếm một chỗ để cô về ở chung, nếu cô bằng lòng. Cô gái cười độ lượng hơn với tôi. Cô bảo tôi lém lỉnh lắm. Tôi thích từ “lém lỉnh”, dường như nó đã quá xa lạ với tôi. Tôi nói: Tôi chỉ mong cô vui.” Cô bảo: “Quả thật ông làm tôi vui.” Tôi tiếp tục tiến tới: “Tôi muốn làm cô vui mỗi ngày.” Cô lại cười độ lượng: “Ngày nào cũng vui thì chán lắm. Tôi cũng thích nỗi buồn và sự hoang mang.” Cô làm tôi ngạc nhiên. Tôi dè dặt hỏi: “Dường như cô làm thơ hay viết văn?” Cô lại càng cười độ lượng hơn như thể tôi là thằng ngu. “Một người không làm thơ hay viết văn cũng biết yêu nỗi buồn và sự hoang mang chứ?” Cô nói nhưng không dành cho tôi.

Tôi cảm thấy nên đầu hàng cô.

Buồn buồn tôi xuống phố lần theo con đường về nhà của cô, lầm lũi đi sau một quãng để cô không cảm thấy bị quấy rầy. Trời rất lạnh. Được một khoảng một cây số, cô rẽ vào một con hẻm. Hẻm nhỏ. Khát khao muốn nhìn thấy chỗ cô ở, nhưng tôi nghĩ cần dừng lại, rồi tôi quay ngược về khách sạn, ôm theo chai rượu.

Đêm, tôi vẫn ngủ một mình. Tôi muốn cô gái biết tôi chỉ có một mình. Để giấc ngủ không mộng mị, tôi tụng mấy câu mật chú do ông sư Tây Tạng truyền. Tôi không tin vào các mật chú như điều gì đó linh thiêng, nhưng tôi biết những gì được lập đi lập lại trong khi thức, cũng sẽ được lập đi lập lại trong giấc ngủ.

Những ngày cuối cùng ở Nepal tôi dành để nhìn ngắm cô đi lại trong các bữa ăn tối. Cô và tôi không nói chuyện gì với nhau nữa. Nhưng tôi cảm thấy cô sâu đậm hơn trong linh hồn tôi. Cô biết điều ấy, nên khi tôi chào cô để về lại Ấn Độ, cô đã cầm tay tôi. Tôi giữ tay cô trong tay tôi một lúc lâu, rồi hôn trên tóc cô, tạm biệt.

Tôi còn gì ở vùng đất nghèo đói và thất bại này? Báu vật Ấn Độ Amanat và cô gái Nepal chưa biết tên không níu kéo tôi. Chưa bao giờ tôi lại cảm thấy mình là hạt bụi đến như thế.

Cuộc cách mạng văn hoá của Mao Trạch Đông ở Trung Hoa lục địa quăng con người vào chảo lửa. Tôi phải thú nhận rằng Mao Trạch Đông luôn gây cảm hứng cho tôi. Vì thế, tôi quyết định đi Mỹ, tìm một đỉnh cao khác.

Tôi vẫn thích đi tàu thuỷ hơn máy bay, dù đường xa vạn dặm. Có thể vì tôi đã bắt đầu cuộc đời mình trên một con tàu và là một đầu bếp. Tôi sẽ mãi mãi đi trên sóng và làm người đầu bếp cho nhân loại. Tôi chọn đến Boston vì tôi biết đây là nơi bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ đã ra đời. Tôi thiết tha sự độc lập cho chính tôi như một chủ thể của tự do. Một cách biểu trưng, tôi vẫn muốn giương ngọn cờ độc lập cho một sự nghiệp của riêng tôi. Nhưng trước hết, tôi cần tìm hiểu khẩu vị Mỹ.

Từ bến cảng, tôi lần mò vào thành phố. Đến một tiệm bánh trên đường School, tôi ghé vào. Đây là nước Mỹ. Tôi kêu một pancake và một ly cà-phê. Trong lúc ăn, tôi tìm cách nói chuyện với người quản lý. Tôi khen bánh ngon và tôi nói ước gì tôi có thể làm được nó. Ông quản lý nói: “Ở đây chúng tao không dạy nghề.” “Nhưng tôi có thể phụ việc được chứ?” tôi hỏi. Gã Smith béo phị bảo: “Mày đến đúng lúc đó, nhưng mày chịu được nóng không?” Tôi cười hớn hở bảo: “Tôi mới chui từ hoả ngục ra.” Gã bảo tôi: “Ngày mai quay trở lại.”

Thế là tôi có việc làm. Một thợ phụ nướng bánh dưới tầng hầm.

Mỗi ngày tôi làm mười tiếng. Chỉ mấy tháng sau, tôi biết làm tất cả các loại bánh. Đường School in dấu chân tôi, cái tầng hầm trong nhà hàng Buzz thấm mùi tôi. Nhưng đời tôi không phải chỉ để đi làm thuê, tôi muốn biết sâu hơn nữa về nước Mỹ, tôi cũng muốn đi học thêm. Nhưng đời tôi không dành cho sách vở, tôi lên New York theo tiếng gọi của mùi. Scarlett, cô sinh viên đại học Harvard, đồng nghiệp bưng bê của tôi ở Buzz đã học xong và về New York. Tôi không được hít hà mùi của cô nữa như mỗi khi có dịp đứng gần cô. Không chỉ có mùi nước hoa, cô toát ra một mùi sâu thẳm huyền bí, tôi tin rằng chỉ có tôi trên đời này mới ngửi ra được cái mùi kỳ ảo đó. Nó xuyên qua khứu giác tôi và xé banh từng thớ thịt tôi.

Harlem rất thích hợp với tôi. Không như hồi mới đến Paris, tôi thuê được một căn phòng nhỏ, có toilet, có thể nấu nướng và giặt giũ. Xong chỗ ở, tôi tìm việc làm. Bà chủ nhà giúp tôi. Công việc lau chùi nhà cửa, rửa chén bát tại một nhà hàng do bạn bà làm chủ đủ cho tôi sống qua ngày chờ một cơ hội tốt hơn.

Nửa năm ở Boston tôi như một kẻ khổ hạnh, cái sừng đỏ mốc trong quần. Vì thế ở Harlem, chỉ sau hai ngày, thằng nhỏ trong quần tôi đã chui ra làm nghĩa vụ quốc tế của nó, khi bà chủ ân cần thăm hỏi tôi.

Jane, cô gái hàng xóm, cũng hồn nhiên đến với tôi khi tình cờ cô bắt gặp tôi và bà chủ đang hôn nhau trong phòng khách.

Tôi nói: “Come here.”

Jane ngồi đối diện, nhìn.

Vẫn ôm bà chủ, tôi lập lại: “Come here.”

Jane bước qua đứng trước mặt tôi. Tôi vòng tay ôm mông Jane.

Không chết đói, chết rét, tôi sẽ vẫn là tôi.

Một kẻ có khả năng như tôi tất nhiên sẽ không bỏ lỡ bất cứ thời cơ nào. Một ngày đẹp trời ở Chinatown, thằng cha đầu bếp chính của nhà hàng nơi tôi làm bị bắn ba phát, chết không kịp trăn trối gì. Ai cũng thấy thằng chả chết lãng nhách, vì một lý do vớ vẩn là bọn hung thủ nhìn nhầm đối tượng. Nhà hàng tạm đóng cửa ít ngày chờ tìm đầu bếp mới. Xui xẻo của người này là may mắn của người khác. Giống như cách ở Ấn Độ, tôi tự tiến cử với bà chủ bằng cách đề nghị cho tôi nấu thử vài món phục vụ bữa cơm cho gia đình bà. Không ai nỡ từ chối một tâm nguyện khiêm tốn như thế, tôi được chấp thuận. Cũng không ai có thể từ chối tôi khi đã thưởng thức tài nghệ của tôi. Trong vòng năm ngày, tôi giới thiệu với bà chủ hai mươi món vừa khẩu vị Mỹ vừa phổ thông quốc tế. Một cách đơn giản, tôi thay đổi địa vị từ đứa rửa bát, sai vặt trở thành bếp trưởng.

Bà chủ hỏi tôi: “Làm thế nào cậu có thể biến những nguyên liệu tầm thường thành đặc sản cao cấp?”

Tôi nói: “Tôi là một tài năng.”

Bà cười: “Cứ coi như vậy đi. Nhưng tại sao cậu đã đến với tôi như một gã ăn mày?”

Tôi cũng cười: “Vì đôi khi việc ăn mày thử thách tôi.”

Bà nhìn tôi nghiêm trang: “Dường như cậu thích được thử thách?”

Tôi vẫn cười cười: “Vâng, không chỉ trong lãnh vực nấu ăn.”

Bà nói: “Như cậu biết, tôi là người khó tính đấy.”

Tôi thưa: “Vâng, tôi vẫn biết điều ấy. Và nó càng thử thách tôi.”

Bà muốn tỏ ra khó khăn thực sự: “Đừng đùa giỡn với cái nguy hiểm. Kẻo oan mạng.”

Tôi vẫn tỏ ra cứng đầu nhưng nhũn nhặn: “Vâng, thử thách càng lớn, nguy hiểm càng cao. Tôi chấp nhận rủi ro.”

Bỗng bà phá ra cười: “Cậu tự tin quá phải không?”

Đến lượt tôi nghiêm trang: “Tôi tin tôi và cũng tin người khác.”

Bà chủ thường xuyên có mặt ở quán hơn. Ngoài việc quản lý nhà hàng cũng như kiểm soát công việc đầu bếp của tôi, tôi không dám chắc bà có tình ý gì với tôi không.

Một đêm, sau khi quán đóng cửa, bà nói: “Để tôi đưa anh về.”

Tôi nói tôi không muốn phiền. Nhưng bà bảo không được cãi.

Tôi ngồi cạnh bà trên xe.

Bà nói: “Anh hút thuốc đi.”

Không thắc mắc, tôi móc gói Philip Morris rút một điếu, châm lửa. Tôi rít một hơi rồi gắn lên miệng bà. Bà ngậm mà không hút. Tôi lấy lại hút tiếp.

Bà nói: “Tôi thích ngửi khói thôi.”

Lỗ mãng phà khói vào mặt bà, tôi nhận ra bà đang kiềm chế một cơn hứng tình. Tôi đặt tay lên đùi bà xoa nhè nhẹ. Bà cầm tay tôi đưa vào trong váy. Không muốn có tai nạn giao thông, tôi ngừng lại. Bà cho xe tấp vào một bãi đậu vắng vẻ.

Chồm qua người tôi, bà hôn tôi ngấu nghiến. Tôi cũng hôn lại bà. Bà cắn khắp người tôi.

Trên đường về nhà, tôi và bà không nói năng gì với nhau. Tôi chỉ chúc bà ngủ ngon sau khi đóng cửa xe.

Từ đó, bà đưa đón tôi đi làm. Chúng tôi vẫn làm tình trên xe hơi và bà thường làm tôi đau.

Mối quan hệ chủ tớ giữa tôi và bà không có gì thay đổi.

Tôi vẫn chắt chiu dành dụm tiền, nhưng chỉ tiết kiệm thôi thì quá mất thời gian, thậm chí không bao giờ đủ để có thể tạo lập một cơ sở riêng, vì thế tôi đành miễn cưỡng nói chuyện phải trái với bà chủ.

“Tôi có một đề nghị muốn nói với bà.”

Bà nói: “Chuyện gì?”

“Công việc thôi.”

“Nói đi.” Bà bảo.

“Tôi muốn góp phần với bà trong việc kinh doanh.”

Bà hỏi: “Tôi sẽ có lợi hơn không?”

“Tất nhiên. Tôi đảm bảo với bà, khách sẽ tăng lên đáng kể, nếu bà cho tôi góp vốn và quyền có ý kiến.”

Bà cười hỏi: “Anh góp vốn bằng cách nào?”

Tôi nói: “Một, bằng chính công sức của tôi. Hai, tôi chấp nhận giảm một nửa lương coi như phần đóng góp hiện vật. Bù lại, tôi muốn được chia lãi theo tỉ lệ 30%.”

Bà cười phá lên: “Anh có mơ ngủ không?”

Tôi đáp: “Không. Nếu bà không OK, tôi sẽ nghỉ việc ngay ngày mai.”

“Căng nhỉ. Anh đã suy nghĩ kỹ chưa?”

Tôi nói: “Phần tôi, xong.”

Bà chậc lưỡi. “Để tôi tính.”

Đêm đó chúng tôi không làm tình.

Sáng hôm sau, bà vẫn đến đón tôi như thường lệ.

Bà nói: “Tôi cũng có một đề nghị.”

“Dạ, tôi nghe.”

Bà nói: “Anh sẽ là người tình độc quyền của tôi.”

Tôi trả lời ngay: “Tôi hứa đáp ứng tất cả mọi nhu cầu của bà, nhưng không bao giờ là độc quyền của bà hay bất cứ một ai khác. Đó là nguyên tắc của tôi.”

Bà nói: “Thôi thế cũng được.”

Mối quan hệ tình dục của tôi với bà khốc liệt hơn. Bà biến tôi thành con vật, hành hạ tôi theo sở thích bạo dâm của bà. Trong một chừng mực nào đó, tôi cũng thích là nô lệ cho bà sai khiến trong những cơn cuồng dâm không bờ bến của bà.

Nhà hàng nhanh chóng phất lên. Tôi cũng nhanh chóng không kém để cân bằng lợi nhuận với bà. Sau hai năm, lợi tức được chia đôi. Tôi bắt đầu nghĩ đến việc mở một nhà hàng riêng.

Thêm một năm nữa sau khi đến New York, nhà hàng Ánh Sáng Phương Đông khai trương tại một khu đất rộng ở ngoại ô, do tôi mua trả góp, có chỗ cho hàng trăm xe đậu cùng lúc. Có thể sa bẫy gái gú nhưng về phương diện làm ăn, tôi không bao giờ sai lầm. Chỉ trong vòng sáu tháng, nhà hàng Ánh Sáng Phương Đông đã nổi tiếng như cồn, không chỉ vì những món ăn ngon, hương vị độc đáo, mà tên gọi các món ăn cũng khác lạ, tất cả đều là mật chú Tây Tạng. Ăn như một lời khấn và người ăn sẽ được toại nguyện bởi công dụng thực tiễn do tôi nghiên cứu chế biến.

Tôi là ánh sáng đến từ phương Đông.

Tôi rao giảng một niềm tin mới. Ăn là nền tảng sự sống, vì thế ăn gì và ăn như thế nào chính là đạo. Kẻ đạt đạo biết cái ăn mang lại cho mình điều gì. Trước hết, tôi mang đến sự khoái khẩu cho thực khách, những dưỡng chất hoàn hảo cho thân xác, niềm khinh khoái cho tinh thần và đặc biệt chỉ có thể có ở nhà hàng của tôi, các món ăn có khả năng cải thiện tình trạng rối loạn cương dương hoặc lãnh cảm.

Tôi mang đến ý nghĩa và niềm vui trần thế.

Nếu ăn ba bữa trong một tuần các món ăn tôi nấu, đàn ông và đàn bà sẽ cảm thấy hưng phấn khi gần nhau. Nếu ngày nào cũng ăn ở nhà hàng tôi, đàn ông sẽ trở thành một thứ dê chúa, có thể phân phối tinh trùng và niềm hoan lạc cho mọi phụ nữ không giới hạn. Và đàn bà sẽ sẵn sàng hiếp đàn ông bất cứ lúc nào.

Tôi đáp ứng mọi khao khát.

Tôi biết sau khi ăn uống tại nhà hàng tôi, ai cũng có nhu cầu giải quyết sự bộc phát của cơn hứng tình không thể kìm chế. Vì thế, tôi cũng không quên làm một motel ở ngay khu đất bên cạnh. Cho thuê theo giờ. Ai không có bạn tình có thể tìm kiếm thoả thuận ngay trong số thực khách hiện diện tại quán. Đây cũng là một biệt lệ chỉ có ở nhà hàng Ánh Sáng Phương Đông. Về nguyên tắc, tôi không chứa gái mại dâm hay đĩ đực.

Các chính khách thích đến nhà hàng tôi, bởi họ có dịp bộc lộ sự quyến rũ cũng như sức mạnh của mình trước các cử tri. Các nhà báo không tránh khỏi tò mò, họ theo dõi tôi đi chợ và tìm cách tiếp cận nhà bếp. Nhưng họ cũng không khám phá được điều gì khác thường, ngoài những bài viết trong các sách hướng dẫn du lịch.

Sau mười năm, chuỗi nhà hàng Ánh Sáng Phương Đông đã có mặt tại năm mươi tiểu bang nước Mỹ. Tôi trở thành một thứ ông hoàng.

Báo Tài chánh phố Wall phỏng vấn tôi.

- Thưa ông, ông có thể cho biết đã khởi nghiệp từ khi nào?

- Xin lỗi, câu hỏi của ông không được rõ ràng lắm. Có phải ông muốn hỏi tôi đã khởi nghiệp tại Mỹ từ khi nào chăng?

- Thưa ông, không chỉ tại Mỹ mà có thể là trước đó nữa.

- Ngắn gọn nhé. Cho đến nay, cơ sở hiện tại của tôi tại Mỹ đã được bắt đầu cách đây hơn mười năm. Trước đó là Ấn Độ, Algeria, Pháp.

- Ồ... Lý do nào ông dừng chân tại Mỹ?

- Nói chính xác thì không phải tôi dừng chân tại Mỹ. Mà tôi muốn coi nước Mỹ như một khởi điểm khác.

- Cho điều gì, thưa ông?

- Một đầu bếp của thế giới.

- Nước Mỹ có thể làm gì cho ông?

- Tôi không cần nước Mỹ làm gì cả. Tự nó đã là thế giới.

- Sau hơn mười năm, ông thấy điều đó còn đúng không?

- Không thể khác được. Định hình ở nước Mỹ cũng có nghĩa là định hình ở tầm mức thế giới.

- Vâng, ông cho mình đã đến đâu trong lộ trình đó?

- Tôi đã đến đích ngay khi đến đây. Ông không thấy tôi đã chinh phục nước Mỹ sao?

- Vâng, tôi thấy. Chính vì thế, tôi muốn hỏi một người Á Đông như ông, làm thế nào có thể làm cho người Mỹ phát cuồng lên vậy?

- Về cơ bản, tôi nghĩ mọi sắc tộc đều như nhau. Khi tôi chế biến một món ăn, tôi không nghĩ món này dành cho người Ấn, hay món kia dành cho người Mỹ. Tôi cho rằng, cái ngon có tính phổ quát. Vấn đề là anh nhận biết nó như thế nào.

- Người ta cho rằng các món ăn của ông có tính ma thuật. Ông nghĩ gì về nhận xét này?

- (Cười to) ... Tôi không ngờ lại thú vị đến thế.

- Những người đã từng đến ăn ở nhà hàng của ông đều nói rằng, các món ăn do ông chế biến có khả năng kích dục, ông đã không trộn một dược chất kích thích nào đó chứ?

- Nói nghiêm túc nhé. Tất cả đều là dược chất, ông tin không?

- Ông có thể giải thích rõ hơn?

- Bây giờ tôi khẳng định, tôi không sử dụng một dược chất nào, hiểu như một chất hoá học. Với tôi, mỗi loại thực phẩm đã là một dược chất với các tính năng cụ thể. Ông biết thuốc Bắc của người Việt Nam hay Trung Hoa không? Tôi chế biến thức ăn theo cách ấy. Vấn đề của tôi hay ông thày thuốc là biết phối hợp liều lượng giữa các thành phần thực phẩm để cho ra một hiệu quả nhất định nào đó theo ý muốn.

- Có nghĩa là ông đã từng nghiên cứu về tính năng của từng loại thực phẩm?

- Đúng thế. Tôi có thể cảm nhận được chúng ngay trên đầu lưỡi và kiểm chứng ngay trên cơ thể mình.

- Có điều gì đấy giống như sự hoang đường, việc ông đặt tên cho các món ăn bằng các mật chú Tây Tạng thật sự có góp phần làm tăng tính năng của thực phẩm như ông mong muốn không?

- Tôi cho rằng không có điều gì vô ích trên cõi đời này, huống chi đó lại là một niềm tin. Nếu ông vừa ăn các món do tôi chế biến vừa tụng niệm các mật chú, hiệu quả của nó sẽ tăng lên theo cấp số của niềm tin. Nói cách khác, nó cũng tương tự như hai con cá và năm chiếc bánh, theo Kinh thánh, có thể cho năm ngàn người ăn mà vẫn dư thừa. Đâu phải chỉ có tôi làm phép lạ.

- Vâng, hiểu theo một cách nào đó, ông đã làm phép lạ. Nhưng tôi vẫn muốn hỏi, ông dựa vào tâm linh, hay thực phẩm của ông có một công thức nhất định?

- Tất nhiên, chỉ có thể có một công thức nhất định mới đảm bảo cho một chất lượng chung ở những nhà hàng khác nhau của tôi. Tuy nhiên, tôi muốn ông lưu ý điều này, các món ăn của tôi đều có những tác dụng vượt trội hơn hẳn mọi kiểm định của các cơ quan chức năng. Nhưng cũng khó có thể nói tôi làm phép lạ mọi lúc, mọi nơi. Ông muốn tôi bật mí cái bí mật nghề nghiệp của tôi chứ?

- Vâng... Vâng... Hơn cả tôi mong đợi.

- Tôi cho rằng, việc ăn, ỉa hoặc xuất tinh cũng cần một triết lý riêng.

- Tôi đang lắng nghe...

- Hãy tận hưởng. Thế giới này vì ta. Vũ trụ này cho ta. Con người đến trần gian để nhận lãnh. Vì thế, hãy ăn để có sức mà nhảy múa. Và khi nhảy múa, bạn sẽ nhận biết được cuộc sống. Và khi nhận biết được cuộc sống, bạn sẽ biết sống để làm gì. Nếu cái ăn chỉ để duy trì cuộc sống thì thà bạn đừng ăn. Nhưng nếu bạn cần ăn để sống, thì hãy coi việc ăn cũng như một nghi lễ. Khi việc ăn giống như một nghi lễ, không những bạn có thể duy trì sự sống, mà bạn còn nhận được hồng ân như ý trời để thực hiện ý trời nơi con người bạn. Chúa phán, hãy sinh sôi nảy nở. Ý chí tối hậu của vũ trụ chẳng phải là phồn thực sao?

- Ok. Một câu hỏi cuối, chúng tôi có thông tin rằng một hiệp hội các nhà hàng toàn liên bang đang được vận động thành lập. Ông tham gia chứ?

- Thông tin của bạn chính xác. Tất nhiên tôi sẽ tham gia, còn để làm gì hay mức độ tham gia tới đâu, hy vọng rằng các bạn sẽ sớm nhìn thấy. Xin cám ơn đã phỏng vấn.

*

Điều tôi vẫn hằng chờ đợi đã đến. Scarlett đến tìm tôi ở nhà hàng. Một cách tự nhiên, chúng tôi ôm lấy nhau. Hơn mười năm nhưng mùi của nàng không thay đổi, mặc dù nàng đã trải qua hai đời chồng.

Scarlett nói: “Sau khi đọc bài báo, em nghĩ nhân vật này chỉ có thể là anh, một đầu bếp Việt Nam.”

Tôi bảo: “Anh hy vọng đây không chỉ là tò mò.”

Scarlett nói: “Vâng, có lẽ thế. Những ngày ở Boston, em biết anh chú ý đến em. Em cũng biết anh luôn tìm cách ngửi mùi em.”

Tôi cười và có chút ít cảm động: “Anh không ngờ em cũng tinh đến thế.”

Scarlett nói: “Anh có cái mũi của con chó săn. Anh biết không, mỗi khi gặp anh, em không hiểu nổi tại sao quần lót em ướt, mặc dù em không hề nghĩ gì đến chuyện ấy.”

Tôi thú nhận: “Tại anh... tại anh... mọi đàng.”

Scarlett ngơ ngác: “Sao lại tại anh? Anh có làm gì em đâu?”

Tôi nhìn sâu vào nàng: “Dâm tính hiển lộ, nói theo cách bình dân của người Việt Nam là ‘dâm ra mặt’. Điều đó kích thích em mà em không biết. Mỗi khi gặp em, một nỗi thèm khát từ sâu thẳm dấy lên, anh cũng không hiểu nổi...”

Sau bữa ăn chiêu đãi nàng, tôi đưa nàng về nhà tôi. Chúng tôi hôn nhau từ khi bước ra khỏi cửa xe cho đến lúc leo lên giường.

Mùi của nàng bốc tôi ra khỏi thế giới này. Tôi như ngất đi. Khi định thần lại, mùi của nàng ủ quanh tôi đậm đặc như một cái kén, tôi lại rơi ngay vào cơn chìm đắm khác. Cứ thế, hai ngày sau tôi và nàng mới rời được nhau. Nàng phải đi làm. Tôi cũng bộn bề công việc. Nhưng buổi tối nàng đến nhà hàng tôi. Chúng tôi ăn uống với nhau và sau đó cùng nhau về nhà. Đêm nào cũng phát rồ phát dại.

Khi không có gái, tôi vẫn tỉnh táo bình thường. Cuộc sống là một cuộc chiến đấu, mà tôi lại không muốn bị ai giết. Đây cũng là thời gian hiệp hội những đầu bếp của thế giới được vận động thành lập, tôi không quên mục tiêu của mình, trở thành một “doanh nhân văn hoá” được UNESCO công nhận.

Ngoài ưu điểm có một hệ thống nhà hàng nổi tiếng nhất nước Mỹ, điều quan trọng hơn là cần cho các thành viên của hiệp hội biết sự cần thiết không thể không có tôi trong vai trò thiết yếu nhất của hiệp hội, cũng như cho các đối thủ biết họ không thể cạnh tranh với tôi, một khi tôi muốn. Tuy nhiên, tôi chỉ sử dụng một tiểu xảo vốn là thế mạnh của mình. Đại hội được tổ chức ngay tại nhà hàng của tôi và do tôi tài trợ toàn bộ mọi chi phí. Chỉ cần các đại biểu ăn các món do tôi nấu, họ sẽ thuộc về tôi. Quả đúng như thế, sau bữa ăn trưa, buổi chiều bỏ phiếu bầu ban chấp hành, tôi đạt phiếu cao nhất. Chức chủ tịch “Hiệp hội các Đầu bếp Thế giới” nghiễm nhiên là tôi.

Để xứng đáng với vị thế mới của mình, tôi viết một cuốn sách nói về vấn nạn của thời đại, cái ăn cho người nghèo. Có hàng tỉ người thiếu ăn trên thế giới, giải quyết vấn đề này không chỉ phụ thuộc vào việc cải tiến nông nghiệp và các biện pháp kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người dân... Trách nhiệm ấy thuộc về các chính phủ. Vì thế, tôi không đề nghị một giải pháp cụ thể nào, cũng như tôi không kêu gọi lòng từ thiện. Bằng kinh nghiệm của mình, tôi chỉ nói về các loại lương thực giàu chất bổ dưỡng và dễ nuôi trồng mà bất cứ ai cũng có thể tận dụng khai thác như các loại nấm, cây chùm ngây, rong rêu, rau cỏ... Các loại côn trùng có sẵn trong thiên nhiên như cào cào, châu chấu, bọ cạp, thậm chí cả sâu bọ... Tôi phân tích mùi vị, hàm lượng các chất và tác dụng của chúng, tính âm dương của từng loại thực phẩm và nguyên tắc chế biến sao cho hấp dẫn nhất và đạt hiệu quả cao nhất về dinh dưỡng.

Tổ chức Lương Nông thế giới và WHO của Liên Hiệp Quốc đánh giá cao tác phẩm của tôi. Họ cho in và phân phối đến các quốc gia nghèo đói nhất ở Châu Phi cũng như Châu Á. Nếu Mao Lục của Mao Trạch Đông có số lượng in tương đương với số dân của Trung Hoa thì sách của tôi đã hơn hẳn Mao Lục ở chỗ tầm quốc tế.

Từ thành công đó, tôi hiến kế cho Liên Hiệp Quốc các chiến dịch diệt ruồi, tránh tiêu chảy, bảo vệ sức khoẻ. Tôi muốn nhìn thấy cảnh tượng cả loài người một tay cầm vỉ đập ruồi, một tay cầm cái lọ hay bịch nylon đựng ruồi, suốt ngày lom khom tìm ruồi. Phong trào “Giết ruồi có thưởng” hay “Diệt ruồi chống tiêu chảy” được phát động bởi chính WHO trên toàn thế giới. Cứ 1000 con ruồi, các “Dũng sĩ diệt ruồi” được tặng một suất ăn cho cả gia đình của nhà hàng Ánh Sáng Phương Đông và bằng khen của WHO. Sau một năm, số lượng người tử vong do tiêu chảy và các loại bệnh về tiêu hoá giảm một cách đáng kinh ngạc. UNESCO và WHO tôn vinh tôi vì những đóng góp to lớn cho sức khoẻ loài người. Những kết quả tốt đẹp ấy chưa làm tôi mãn nguyện.

Tôi muốn cho cả thế giới biết Giác Thành Mao là bậc thày của giao cấu nghệ thuật và các món ăn do ông ta chế biến phi thường về khả năng kích dục. Tôi cần được nhìn nhận như một người tình vĩ đại của nhân loại vì hạnh phúc tôi mang đến cho mọi người. Khi tôi nghĩ đến điều ấy, lập tức tôi cảm nhận được nó trong tầm tay.

Bà chủ tịch của tổ chức Press Quốc tế đã trải nghiệm một thực tế của đỉnh cực sướng với tôi sau một bữa ăn ở nhà hàng Ánh Sáng Phương Đông do tôi mời. Tất cả các thành viên của Press Quốc tế cũng lần lượt được Ánh Sáng Phương Đông khải thị niềm hoan lạc siêu thoát.

Tôi là đấng khai sáng của trào lưu “Eat to fuck”. Từ một hành động này dẫn đến một hành động khác, logic của hành động là biến hành động thành mục đích của hành động và ý nghĩa của hành động. “Ăn, ngủ, đụ, ỉa” không chỉ là tứ khoái của bản năng con người mà còn là ý nghĩa của cuộc tồn sinh phù du trên mặt đất. Nhận thức và hành động, phương tiện và cứu cánh hài hoà làm một. Cái một hiện hữu như một hành động và cảm thụ hành động. Đó là cuộc sống.

Tôi là cuộc sống của tôi.

Và tôi được Press Quốc tế vinh danh là “Công dân danh dự toàn cầu”.

 

[còn tiếp 3 chương]

 

-----------

Đã đăng:

... Hơn một tháng sau, tàu ATF cập cảng Le Havre. Nước Pháp làm Mao Thành Giác mờ mắt. Hắn xuống tàu và không bao giờ trở lại. Lần mò đến Paris, hắn tìm được vài người đồng hương. Họ giúp hắn kiếm tiền bằng cách đi giao báo. Họ cũng dạy hắn tiếng Pháp hoàn chỉnh và dạy cách hắn viết báo để kiếm thêm tiền. Đấy là lúc Mao Thành Giác khát khao nhất được nhận vào trường Thuộc Địa, nhưng đơn xin đặc cách của Mao Thành Giác gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa không được chấp nhận, mặc dù hắn đã thành khẩn “Tôi nguyện làm tôi tớ trung thành của mẫu quốc vĩ đại.” ... (...)

 

---------------------------------------------------------------

 

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021