thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Thuyền
(Gởi bạn bè, những người một thời bị ám bởi con thuyền.)

 

 

THUYỀN

 

Năm ngoái, có một lần Nerine Martini gọi điện thoại cho tôi, giọng cô reo vui khác thường: “Linh ơi, còn nhớ bài viết Thuyền Cứu Rỗi không? Carolynne Skinner, chủ biên của đặc san mỹ thuật OZ Arts, có đọc bài viết của Linh và rất thích, bà nhờ mình gọi Linh để được phép đăng cũng như xin trích một đoạn cho phần kết bài tiểu luận của bà... Linh đồng ý chứ?”

Lặng yên một khoảnh khắc, tôi nói, giọng tỉnh queo: “Ồ, Nerine, tôi e là không được đâu. Tôi không nghĩ là Carolynne có thể trả nổi khoản... tiền nhuận bút đâu.”

 

*

 

Gần mươi năm trước, tôi bày một tiệc nhỏ tại nhà, khách mời phần lớn là người Úc chuyên môn trong lĩnh vực tạo hình: Kon Gouriotis, Nerine Martini, Sue Pedley, Ray Beattie, chị Huỳnh Bội Trân, Mỹ Lệ Thi, anh Hoàng Ngọc-Tuấn...

Sau bữa ăn nhẹ, mọi người ngồi quanh cái bàn thấp rộng trong phòng khách, chính giữa bàn là tác phẩm điêu khắc của Nerine Martine: “Thuyền Cứu Rỗi”. Kon Gouriotis ngồi đối diện với tôi. Thuở đó Kon đang làm giám đốc của Viện Mỹ Thuật Casula Powerhouse. Ngắm chiếc thuyền thật lâu, đột ngột ông ngẩng mặt lên nhìn tôi nói: “Linh, bồ kể cho tụi này nghe tại sao bồ thích và mua lại chiếc thuyền này đi.”

Có lẽ vì đang ngà ngà hơi men, hay vì bị thúc giục bởi một ám ảnh trong vô thức, tôi bắt đầu kể, mắt không rời chiếc thuyền trước mặt.

Tôi đã không còn ngồi đó nữa, hồi tưởng ném tôi lọt thỏm vào lòng chiếc thuyền của hơn 20 năm trước. Tôi đang ngồi bệt trần truồng, sống lưng tựa vào mạn thuyền, hai bàn tay bấu chặt vào ống chân trái nơi vừa bị bể toác vì nhát rìu; tên hải tặc Thái nhắm đầu tôi bửa xuống mà chính phản xạ sinh tồn đã khiến tôi cuộn mình, giơ ống chân lên che chắn. Qua kẽ tay, máu cứ lầy nhầy, lợn cợn ứa ra.

Máu nhễu giọt... Đống quần áo bao bị sau khi đã giằng xé ra khỏi thân thể của 38 con người, được gom thành một đống lớn giữa lòng chiếc thuyền. Như một thứ “nghi lễ” kỳ dị, nhóm hải tặc vừa cười rú, vừa nhảy múa xung quanh đống đồ, vừa nhặt từng chiếc lên, lấy ra tất cả những gì trong túi áo, túi quần. Chưa xong, họ còn tỉ mỉ lần ngón tay theo từng cái tà áo, cái lai quần. Họ rành quá, ở đó chính là nơi người tị nạn cất giữ những thứ quí giá nhất: những sợi dây chuyền vàng, những đồng đô-la cuộn nhỏ... Ở đó cũng là nơi ghi chép địa chỉ người thân ở Anh, ở Mỹ..., ghi chép cấp bậc số quân của người cha, người chồng còn trong trại cải tạo.

Máu nhễu giọt... Những tên hải tặc bồng xốc những đứa con gái lên rồi vật từng đứa, từng đứa nằm ngửa loã lồ trên sàn ca-bin thuyền. Bọn chúng xếp hàng một rồi tuần tự thúc tới. Một cái thùng phuy chứa đầy nước bên cạnh, một cái nón sắt cũ của lính Mỹ lật ngửa, như cái gáo... Họ múc - tạt - rửa... Múc - tạt - rửa... Múc - tạt - rửa... Rồi bọn chúng luân phiên, nhường chỗ cho những kẻ kế tiếp.

Tôi kể, tôi kể. Máu nhễu giọt, nhễu giọt... Giọng tôi đều và lạnh, cứ như vậy không biết bao lâu tôi chợt rũ ra, kiệt sức...

 

*

 

Khi tôi kể xong, ngước mặt nhìn lên, bạn bè vẫn còn sững sờ bất động, họ nhìn tôi như nhìn một người đang... hấp hối.

Kon Gouriotis là người đầu tiên lên tiếng, giọng ông lạc hẳn, ấp úng: “Linh ơi, Tối mai tôi quay lại nhà bồ được không? Tôi sẽ mang theo cái máy quay phim. Tối mai bồ làm ơn kể lại chuyện này một lần nữa. Cuốn phim sẽ là một loại Video-Art về người tị nạn... mà tôi muốn dùng nó cho cuộc triển lãm sắp tới.”

Chị Bội Trân và dăm ba người nhẹ nhàng tán đồng ý định của Kon Gouriotis. Họ lên tiếng khuyến khích, nhưng tôi dứt khoát từ chối vì trước tiên tôi biết mình không thể “diễn” lại những gì tôi mới kể. Hơn nữa, để danh tính và diện mạo nơi công cộng là điều tôi thường tránh né. Tôn trọng tôi, bạn bè không nhắc đến việc làm phim, nhưng họ lại loay hoay tiếc. Chị Bội Trân sau đó nhỏ nhẹ đề nghị: “Hay là anh Linh viết lại đi. Trân nghĩ ngồi viết lại có lẽ dễ hơn.” Chiều chị và nhóm bạn hữu, tôi gật đầu.

Không lâu sau đó, cầm bài viết Thuyền Cứu Rỗi đưa cho chị Bội Trân, tôi nhờ chị đừng để tên cúng cơm của tôi dưới bài viết, chị muốn lấy tên gì khác cũng được. Chị đã lẳng lặng dùng một bút hiệu cũ của tôi: Phạm Chí.

Trong cuộc triển lãm “Nam Bang” tại Viện Mỹ Thuật Casula Powerhouse, từ 04.04.2009 đến 21.06.2009, dưới chủ đề nhìn lại cuộc chiến Việt Nam qua những góc cạnh khác nhau, với sự tham gia đóng góp tác phẩm của 25 hoạ sĩ đến từ nhiều nơi trên thế giới, tác phẩm điêu khắc “Thuyền Cứu Rỗi” của Nerine Martini từ phòng khách nhà tôi, và bài viết Thuyền Cứu Rỗi của tôi (với bản dịch tiếng Anh của anh Hoàng Ngọc-Tuấn), được trưng bày trên bục cao, trong lồng kính.

 

 

*

 

Tội nghiệp Nerine, vẫn đang nghe điện thoại, cô ú a ú ớ không nên lời, khi nghe tôi đề cập đến tiền nhuận bút. Tôi liền cất tiếng xin lỗi rằng tôi chỉ đùa thôi, rằng tôi có tật mỗi khi cảm động thì lại hay nói đùa. Tôi nói với Nerine rằng tôi đồng ý vô điều kiện để Carolynne tuỳ nghi sử dụng bài viết đó.

Một tháng sau, Nerine rủ tôi đi ăn bún bò Huế ở Bankstown, Sydney. Cô tặng tôi cuốn OZ Arts, số Winter 2015. Giở sách nhìn lướt qua, tôi bắt gặp dòng chữ đầu tiên Carolynne Skinner viết trong mục Editorial: “One of the most moving stories I have read in a long time is the one related by Pham Chi, a Vietnamese Australian who now owns Nerine Martini’s maquette of Life Boat / Thuyen Cuu Roi...” (Trong suốt một thời gian dài, một trong những câu chuyện cảm động nhất mà tôi từng đọc là câu chuyện được kể lại bởi Phạm Chí, một người Úc gốc Việt và hiện nay là chủ nhân của tác phẩm “Thuyền Cứu Rỗi” của Nerine Martini.)

 

 

 

VÕ QUỐC LINH
Little Moon Bay, 5 /2016.

 

------------

PHỤ LỤC:

 

THUYỀN CỨU RỖI

(CẢM NGHĨ CỦA NGƯỜI ĐÃ MUA BỨC ĐIÊU KHẮC “THUYỀN CỨU RỖI”)

 

Tôi là một người bạn của Nerine Martini, tác giả của bức điêu khắc này. Tôi theo đạo Phật và là một trong hàng triệu người Việt Nam tị nạn bằng thuyền từ sau tháng 4/1975.

Trước khi thoát khỏi Việt Nam, tôi đã có mười năm sống dưới chế độ Cộng sản (1975-1985). Hơn nửa thời gian đó, tôi bị giam giữ, hành hạ trong một số trại tù và trại cải tạo; thời gian còn lại là lẩn lút mưu toan cho những chuyến vượt biên, lập đi lập lại bất thành. Và suốt mười năm khốc liệt đó, dù đang bị đánh đập, tra tấn trong những lần thẩm cung, dù đang quần quật lao động khổ sai tại Côn Đảo, A 30, A 40,... dù có lúc biên giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh, tôi chưa bao giờ từ bỏ ý định vượt thoát khỏi Việt Nam.

Chiếc thuyền là một ám ảnh không rời.

Tháng 5/1985, tôi cùng 38 người gồm nam phụ lão ấu trên một chiếc thuyền mỏng manh dài khoảng mươi thước, máy móc thô sơ, thực phẩm thiếu hụt, xuất phát từ Cà Mau, nhắm về Vịnh Thái Lan. Sau khi thoát lằn đạn lửa của công an biên phòng bắn rượt theo trong đêm, thì kế đến là bão biển, đói khát, và sau cùng chiếc thuyền nhỏ của chúng tôi bị kềm chặt bởi hai chiếc tàu đánh cá khổng lồ của hải tặc Thái. Chúng tôi bị lột trần truồng, bị đánh đập dã man, phụ nữ và các em gái bị hãm hiếp, chiếc thuyền bị chẻ bửa ra để tìm kiếm vàng bạc.

Quí vị có biết hải tặc Thái như thế nào không? Quí vị thử nhắm mắt hình dung một đoàn người vạm vỡ to lớn, da đen nâu và chỉ mặc độc một chiếc quần lót của phụ nữ, nhỏ xíu mỏng tang, màu xanh lá hoặc màu hồng, cổ đeo dây chuyền vàng to bản, trên thân hình đầy những hình xăm, vết sẹo, tóc dài kết thành lọn quăn xoắn, tay cầm dao quắm hoặc rìu, di chuyển nhanh gọn, và thuần thục trong từng hành động đánh đập, cướp bóc và hãm hiếp. Nhưng cái kinh khủng nhất là ánh mắt của họ. Cái ánh mắt mà cho đến hôm nay, sau 20 năm vẫn còn ở lại với tôi...

Đến Terengganu (Malaysia), chúng tôi 38 người không còn là người, không quần áo che thân, bò lổn ngổn trên cát. Những người đàn bà và những cô gái trẻ máu còn chảy ròng ròng từ chỗ kín hoà với nước biển, với dầu cặn tuôn dọc theo hai ống chân bầm tím.

Và chiếc thuyền, như đã xong phần số, chìm dần trong làn nước dập dìu đưa đẩy ra xa.

Như bao nhiêu người Việt tị nạn khác đã định cư đó đây khắp nơi trên thế giới, dù đã hơn 20 năm tôi vẫn còn nguyên những cơn ác mộng, lập đi lập lại. Hằng đêm tôi choàng dậy kinh hoàng thảng thốt vì tưởng mình còn ở đó, còn đang chờ tra vấn, chờ tiếng kẻng gõ giờ lao cải... Tất cả như vẫn còn đó, nguyên vẹn. Lạ thay, chỉ một điều vắng bặt, không còn là nỗi ám ảnh: Chiếc thuyền.

 

*

 

Tôi quen biết Nerine từ 2007. Mùa đông năm đó, tôi và các bạn hoạ sĩ khác cùng đến tư gia của cô ở Blue Mountains để phụ giúp cô khuân tác phẩm “Thuyền Cứu Rỗi” (nguyên khổ lớn, vận chuyển bằng xe tải từ Melbourne về Sydney). Khi chiếc xe vận tải lớn ì ạch len vào sân nhà Nerine, toàn thân tôi rúng động vì bất ngờ. Tôi sửng sốt nhìn chiếc “Thuyền Cứu Rỗi” đang được đưa xuống bởi Nerine và các bạn. Tôi đứng nhìn như bị ghìm chặt xuống đất. Trong mùa đông xám xịt đó, tôi đứng nhìn mà không biết nước mắt mình trào ra: Tôi nghe xung quanh tôi tiếng sóng dậy ì ầm, lúc dạt dào, lúc phẫn nộ. Tôi nghe tiếng khóc lúc tỉ tê lúc bằn bặt của bé gái bị hãm hiếp. Tôi nghe tiếng khóc ồm ồm của người đàn ông bị hải tặc dùng búa nện gãy mấy cái răng bịt vàng. Rồi tôi thấy lại chính mình ngồi trần truồng trên mũi thuyền, đưa thân hình gầy gò máu rỉ hứng chịu cơn mưa biển quất vào mặt, lờ mờ phía trước là biển đen mù mịt từng đợt, từng đợt sóng nhồi thân hình tôi lên cao rồi lại nhận chìm xuống. Tôi thấy tôi ngửa mặt la thật lớn bằng tất cả sức lực còn sót lại: “Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát”. Tôi đã ngồi và la hét chỉ một câu đó cho tới khi cổ họng tôi khô rát, và đó cũng là lúc trời vừa hừng rạng và đất liền nhấp nhô trong tầm mắt...

Tám cánh tay đính vào hai mạn thuyền là tám cánh tay của bức tượng Bồ Tát Quan Thế Âm (Avalokitesvara Bodhisattva) tại chùa Bút Tháp, Hà Bắc. Nerine nhìn thấy tám cánh tay này trong một lần viếng thăm để học hỏi về nghệ thuật tạo hình của chùa cổ Việt Nam. Từ đó, tám cánh tay ở lại bồng bềnh, dịu dàng vẫy gọi, vẫy gọi mãi trong tâm thức của cô.

Tôi có đề nghị Nerine đổi tên gọi của tác phẩm “Thuyền Cứu Rỗi” thành “Thuyền Cứu Độ”, vì chữ cứu độ là chữ trong Kinh Phật, cứu rỗi là chữ trong Kinh Thánh.

Hôm nay, ngồi viết những dòng này, trước mặt tôi là chiếc thuyền cứu rỗi thu nhỏ đã mua lại từ mùa đông hôm đó.

Mỗi đêm, khi vợ con tôi đã yên giấc, tôi thường ngồi lặng lẽ nhìn chiếc thuyền, ánh đèn từ trên chụp xuống in đậm lên mặt bàn cái bóng đen một xác thuyền khác, như một cái xương cá nằm đâu đó dưới lòng đại dương... Và những cánh tay Bồ Tát vẫn muôn đời dập dìu như làn sóng gợn phía bên trên.

 

PHẠM CHÍ
Sydney, 2008.

 

 

 

-------------------

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021