thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Thơ khẩn cấp [II]
(Diễm Châu dịch)
 

NHỮNG CÂU HỎI VÀ CÂU TRẢ LỜI

 
anh thấy rằng liệu có bõ công
giết chết thần linh
để xem xem có sửa lại cho ngay được thế giới?
 
—dĩ nhiên là bõ
 
—liệu có bõ công liều
mạng sống mình cho một ý tưởng
có thể là sai lầm?
 
—dĩ nhiên là bõ
 
—bây giờ tôi hỏi anh liệu có
bõ công ăn thịt cua
có bõ công nuôi nấng
những đứa trẻ sẽ quay lại
chống lại cha anh chúng?
 
—hiển nhiên là có
là không, bõ
 
—bây giờ tôi hỏi anh liệu có
bõ công đặt một đĩa hát
bõ công đọc một cái cây
bõ công trồng một cuốn sách
nếu hết thảy đều biến đi
nếu không có gì bền vững?
 
—có lẽ là chẳng bõ
 
—anh đừng khóc
 
              —tôi đang cười đây
 
—anh đừng sinh ra
 
              —tôi đang chết đây.
 
 

VƯỜN THÚ

 
Trong một vài năm nữa sẽ xẩy ra chuyện sau đây :
Một con voi cao hai ba thước sẽ tự nhủ :
Ta là một con voi hữu ích cho bản thân ta
ống quần ta tràn ngập hạnh phúc tới mãi tận cái móc kéo răng cưa.
Không phải dễ gì mà bước lui trở lạI—trở lại nơi cao
Trở lại với hình ảnh của một con voi yêu kiều hơn ta
Khiến ta cảm thấy đôi chút lương tâm cắn rứt.
Một con voi khốn khổ sẽ là gì nếu người ta rứt đôi ngà của nó
Rồi cho những cú đá vào cạnh sườn
Cho đến khi chẳng còn gì hết.
 
Nghe thấy thế con ruồi liền đáp :
Này chú voi, những lời chú nói làm chúng tôi thật bối rối
Chú hãy nhìn tôi sức khỏe tràn trề
Đi giữa lá giữa hoa
Giữa những ống chân voi
Đi săn lùng một con ruồi khác tựa như tôi.
Hãy noi gương một con ruồi biết nghĩ biết ngủ biết cười
Và thường thường dọn ổ
Trên một đống phân nhân tạo.
 
Cuộc trao đổi ngắn ngủi này sẽ diễn ra trong mấy năm
Nơi một khu vườn tư có mắc đèn điện
Trên cổng khu vườn có thể đọc thấy bảng đề như sau :
«Vườn tư, thứ Sáu và thứ Bẩy từ 11 tới 12»
Thế rồi con voi sẽ choàng dậy từ giấc ngủ kinh hoàng
Và tựa trên một thứ áo quan mà thét lớn :
Chúa che chở mọi loài.
Người chẳng để ta phải chết.
Lũ ruồi đã quen nghĩ rằng chúng hoàn hảo
Chúng bay, đôi khi chúng đi từ một nơi này tới nơi khác
Khua chân múa tay cùng một lúc.
Nghe thấy thế con ruồi sẽ thêm :
Hỡi Chiên con Thiên chúa, mấy con voi này đã hóa điên
Hút ngập vòi những nước rồi phóng ra tung tóe
Chúng chạy với những tốc độ khủng khiếp
Qua những vườn thú tư không cửa ra vào cũng chẳng có cửa sổ kia
Như những con voi mắc bệnh phải tuyệt chủng.
 
Đến lúc này sẽ xẩy ra chuyện sau đây :
Con ruồi đột nhiên sẽ lớn lên bằng con voi
Và về phần chúng, những con voi sẽ mất ký
Hình ảnh chúng sẽ co lại một ngàn lần lẻ một
Sẽ biến thành những con voi nho nhỏ ở nhà bếp ở phòng khách
Chúng sẽ là những con vật tí hon chạy khắp nơi
Trong những trái cây trong đường trong súp
Và đàn ruồi được trang bị những cặp ngà mạnh mẽ
Sẽ lui về viễn đông.
 
 

SIGMUND FREUD

 
Con chim với lông vũ đầy mỏ!
Không thể nào chịu nổi nhà y sĩ thần kinh nữa :
Ông liên hệ hết mọi sự về với tính dục.
 
Nơi các tấc phẩm của Freud xuất phát
Những xác định dị kỳ nhất.
 
Cứ theo vị này
Những vật có hình thù thuôn dần
—Bút máy, súng lúc, súng hỏa mai,
Bút chì, ống dẫn, quả tạ—
Tượng trưng bộ phận sinh dục của đàn ông;
Những vật có hình tròn
Tiêu biểu cho bộ phận sinh dục của đàn bà.
 
Nhưng thần kinh học còn đi xa hơn nữa :
Không chỉ những hình nón và hình trụ
Hầu như tất cả các hình khối kỷ hà
Đều tượng trưng những khí cụ tính dục
Chẳng hạn các kim tự tháp Ai-cập.
 
Nhưng sự việc chưa chấm dứt ở đây
Người hùng của chúng ta còn đi xa hơn thế :
Ở nơi chúng ta thấy những vật dụng kỹ xảo
Chúng ta thấy, chẳng hạn như, những ngọn đèn hoặc những cái bàn
Nhà thần kinh y sĩ thấy những là dương vật và âm hộ.
 
Ta hãy phân tích một trường hợp cụ thể :
Một kẻ mắc bệnh thần kinh đang đi trên đường
Đột nhiên hắn quay đầu lại
Là vì có điều gì đó khiến hắn chú ý
—Một cây phong, một cái quần sọc
Một vật gì đó bay qua không trung—
Trong thuật ngữ của thần kinh bệnh học
Điều ấy có nghĩa là
Đời sống tính dục của thân chủ
Cực kỳ lộn xộn.
 
Chúng ta thấy một chiếc xe hơi
Chiếc xe hơi là một biểu tượng dương vật
Chúng ta thấy một tòa nhà đang vươn lên
Tòa nhà là một biểu tượng dương vật
Người ta mời chúng ta đi xe đạp
Chiếc xe đạp là một biểu tượng dương vật
Chúng ta tình cờ ra nghĩa địa
Nghĩa địa là một biểu tượng dương vật
Chúng ta thấy một cái lăng
Cái lăng là một biểu tượng dương vật
 
Chúng ta thấy một vị thần bị đóng đinh trên thập giá
Cây thập giá là một biểu tượng dương vật
Chúng ta mua bản đồ nước Á-căn-đình (hay Ac-hen-ti-na)
Để nghiên cứu vấn đề ranh giới
Toàn bộ nước Á-căn-đình là một biểu tượng dương vật
Chúng ta được mời qua Trung-hoa Nhân-dân
Mao Trạch Đông là một biểu tượng dương vật
Để bình thường hóa tình hình
Chúng ta phải ngủ một đêm ở Mát-cơ-va
Cái giấy thông hành là một biểu tượng dương vật
Quảng trường Đỏ là một biểu tượng dương vật.
 
Chiếc máy bay phụt ra lửa ở đằng miệng.
 
Chúng ta ăn một mẩu bánh mì với bơ
Bơ là một biểu tượng dương vật
Chúng ta nghỉ đôi lát nơi một khu vườn
Con bướm là một biểu tượng dương vật
Cái ống kính viễn vọng là một biểu tượng dương vật
Cái bình sữa cho trẻ nhỏ là một biểu tượng dương vật
 
Trong một chương riêng
Ta thấy những gì ám chỉ âm hộ
Vì phép lịch sự ta sẽ không nói tới những điều ấy
Khi không so sánh với con cú
Thường tiêu biểu cho sự khôn ngoan
Người ta so sánh nó với những cóc hoặc ếch.
 
Ở phi trường Bắc-kinh
Trời nóng hơn một vạn thằng quỷ
Người ta đang đón chờ chúng tôi với hoa và đồ giải khát
Kể từ khi có trí khôn
Tôi chưa hề thấy những bông hoa xinh đẹp đến thế
Kể từ khi thế giới là thế giới
Tôi chưa từng thấy những con người thân hữu đến thế
Kể từ khi hành tinh là hành tinh
Tôi chưa từng thấy những con người hoan hỉ đến thế
 
Kể từ khi tôi bị tống khứ
Khỏi Địa-đàng.
 
Nhưng chúng ta hãy trở lại với bài thơ của chúng ta đã.
 
Mặc dù có vẻ kỳ cục
Nhà y sĩ thần kinh có lý
Vào lúc đi qua một đường hầm
Người nghệ sĩ bắt đầu mê sảng.
Để khởi sự người ta đưa anh ta tới một nhà máy
Đây là nơi khởi sự chứng điên cuồng
 
Triệu chứng chính yếu :
Anh liên hệ hết thảy mọi sự với động tác
Anh không phân biệt nổi mặt trăng với mặt trời
Anh liên hệ hết thảy mọi sự với động tác
Những nòng thụt là những bộ phận sinh dục
Những ống thống là những bộ phận sinh dục
Những mâm xoay bộ phận sinh dục
Những tay quay bộ phận sinh dục
Những lò luyện kim-thuộc bộ phận sinh dục
Đai ốc và bù-loong bộ phận sinh dục
Đầu máy xe lửa bộ phận sinh dục
Tàu thuyền ghe nhỏ bộ phận sinh dục.
 
Mê lộ không lối thoát.
 
Tây phương là một kim tự tháp lớn
Chấm dứt và khởi sự nơi một y sĩ thần kinh :
Kim tự tháp ấy đang muốn sụp đổ.
 
 

ĐỂ ANH THẤY RẰNG TA CHẲNG HỀ THÙ OÁN GÌ ANH

 
ta tặng anh mặt trăng
nghiêm chỉnh đấy—đừng nghĩ rằng ta chọc ghẹo anh :
ta tặng nó cho anh với tất cả lòng thương mến
chẳng hề có nhát dao nào đâm sau lưng!
anh có thể tự tới lượm lên
tía anh yêu thương anh
cánh bướm của anh muôn màu sắc
Tới thẳng từ Mồ Thiêng.
 
 

TA PHẢI LẶP LẠI BAO NHIÊU LẦN NỮA

 
Kiếm ít thuốc trừ sâu bọ
Quét sạch mạng nhện trên trần
Lau chùi kính cửa sổ
đầy những cứt ruồi!
Phủi bụi bám trên đồ đạc
Và khẩn cấp hơn cả :
thanh toán mấy con bồ câu :
ngày nào cũng làm dơ bẩn xe ta!
 
Quái, chúng bay bỏ diêm quẹt ở đâu!
 
 

NHỮNG Ý NGHĨ LỘN XỘN

 
Tôi không muốn nhìn thấy tôi
Trong những tấm gương vấy máu.
 
Tôi thà ngủ ngoài trời
Hơn là chung giường cưới
Với một con rùa.
 
Chiếc xe hơi là một cái ghế có bánh xe.
 
Và thằng khốn nhìn mẹ
Vào đúng lúc sinh
Còn mang dấu vết đời đời chẳng cùng a-men *.
 
------------------------------
* para sécula seculorum. (người dịch)
 
 

TUYÊN NGÔN

 
Thưa quý ông quý bà
Đây là lời cuối cùng của chúng tôi,
—Lời đầu tiên và cũng là lời cuối cùng của chúng tôi—
Các nhà thơ đã rời bỏ tiên giới.
 
Đối với ông cha chúng ta
Thơ là một món đồ xa xỉ
Nhưng đối với chúng tôi
Ấy là một nhu cầu tuyệt đối
Chúng tôi không thể sống thiếu thơ.
 
Khác với ông cha chúng ta
—Và tôi nói thế với tất cả sự kính cẩn—
Chúng tôi chủ trương
Rằng nhà thơ không phải kẻ biến kim loại thành vàng
Nhà thơ cũng là người như hết mọi người
Một người thợ nề xây bức tường của mình :
Một kẻ xây dựng những cửa ra vào và cửa sổ.
 
Chúng tôi nói
Bằng ngôn ngữ của hết mọi ngày
Chúng tôi không tin ở những ký hiệu thần bí.
 
Ngoài ra còn một điều :
Nhà thơ có đó
Để cho cái cây không mọc cong queo.
 
Đây là tín điệp của chúng tôi.
Chúng tôi tố cáo nhà thơ Hóa công
Nhà thơ Gián ngày
Nhà thơ chuột thư viện.
 
Hết thảy các vị ấy
—Và tôi nói thế với rất nhiều kính cẩn—
Cần phải đưa ra tòa xét xử
Vì xây dựng những lâu đài trên không
Vì phí phạm không gian và thời gian
Soạn những bài thơ vịnh nguyệt
Vì quy tụ các từ một cách hoàn toàn may rủi
Theo đúng mốt cuối cùng của Paris.
Đối với chúng tôi không thể thế :
Suy tưởng không sinh ra trong miệng
Mà sinh ra nơi trái tim của trái tim.
 
Chúng tôi khước từ
Thơ kính râm
Thơ kiếm hiệp
Thơ mũ lông
Thay vì thế chúng tôi đề nghị :
Thơ của con mắt trần
Thơ của lồng ngực lông lá
Thơ đầu trần.
 
Chúng tôi không tin ở những thần sông thần biển.
Thơ cần phải là điều này :
Một thiếu nữ giữa những bông lúa
Hay tuyệt đối không là gì hết.
 
Vậy mà, trên bình diện chính trị
Họ, các vị tiền bối gần guĩ nhất của chúng ta,
Các bậc tiền bối kề cận chúng ta!
Tự khúc xạ và tản mạn
Qua những lăng kính pha-lê.
Một ít người đã xuất hiện như những người cộng sản
Tôi không biết họ có thực là cộng sản hay chăng.
Ta hãy giả thiết họ là người cộng sản,
Có điều tôi biết :
Họ không phải là những nhà thơ của nhân dân.
Họ chỉ là các vị thi sĩ tư sản.
Chuyện có sao phải nói vậy :
Chỉ có một hay hai
Từng đạt tới trái tim của nhân dân.
Mỗi khi có thể được
Họ bày tỏ bằng ngôn từ và bằng hành động
Chống lại thơ chỉ huy
Chống lại thơ của hiện tại
Chống lại thơ vô sản.
 
Ta hãy chấp nhận họ là người cộng sản
Nhưng thơ là cả một thảm họa
Siêu thực hạng nhì
Suy đồi hạng ba,
Những mảnh ván mục mà sóng biển xô lật.
Thơ tĩnh từ
Thơ giọng mũi và âm hầu
Thơ độc đoán
Thơ cóp nhặt sách vở
Thơ tựa trên
Cuộc cách mạng từ ngữ
Thực ra phải dựa vào
Cuộc cách mạng tư tưởng.
Thơ của cái vòng lẩn quẩn
Cho nửa tá những kẻ được tuyển trạch thì :
«Tự do diễn tả tuyệt đối.»
 
Ngày nay chúng ta phân vân hỏi
Làm sao họ lại viết những điều ấy
Để làm hoảng sợ người tiểu tư sản ư?
Thực là mất thì giờ một cách thảm hại!
Người tiểu tư sản sẽ chẳng có phản ứng
trừ phi chuyện quan hệ tới bao tử.
 
Nói cho cùng ai mà sợ thơ!
 
Tình hình là thế này :
Trong lúc họ ủng hộ
Thơ hoàng hôn
Thơ đêm tối
Chúng tôi chủ trương
Thơ rạng đông.
Đây là tín điệp của chúng tôi :
Ánh sáng của thơ
Phải tới với tất cả ngang nhau
Thơ tới cho tất cả.
 
Chỉ có thế, hỡi các đồng chí
Chúng tôi lên án
—Và điều này phải tôi nói với sự kính cẩn—
Thơ của những ông trời con
Thơ của con bò thần
Thơ của con bò mộng giận dữ.
 
Đối nghịch với thơ của những đám mây
Chúng tôi đặt
Thơ của đất liền vững chãi
—Cái đầu lạnh, trái tim nóng
Chúng tôi dứt khoát là những người của đất liền vững chãi—
Đối nghịch với thơ cà-phê
Là thơ của thiên nhiên
Đối nghịch với thơ khách thính
Là thơ của công viên
Thơ của phản kháng xã hội.
 
Các nhà thơ đã rời bỏ tiên giới.
 
 

TÔI KẺ TỘI LỖI

 
Tôi khách tao nhân bất toàn
Tôi vũ công bên miệng vực,
 
Tôi kẻ coi đền tục tĩu
Đứa trẻ phi thường của những đống rác,
 
Tôi cháu chú cháu bác—cháu nội cháu ngoại
Tôi kẻ âm mưu hoàn toàn không đáng tin cậy
 
Tôi ông chúa của loài ruồi
Tôi kẻ xé xác chim én,
 
Tôi cầu thủ bóng đá
Tôi tay bơi lội của dòng Estero las Toscas,*
 
Tôi kẻ xúc phạm mồ mả
Tôi, quỷ sa-tăng mắc bướu ở cổ,
 
Tôi kẻ trốn lính
Tôi công dân với quyền bỏ phiếu,
 
Tôi đấng chăn chiên của quỷ
Tôi nhà quyền thuật bị chính bóng mình hạ,
 
Tôi ẩm khách thời danh
Tôi linh mục của bàn đầy,
 
Tôi vô địch điệu cueca **
Tôi vô địch tuyệt đối điệu tango,
Điệu guaracha, rumba và luân vũ,
 
Tôi mục sư tin lành
Tôi con tôm, tôi gia trưởng,
 
Tôi tiểu tư sản
Tôi giáo sư khoa học thần bí,
 
Tôi cộng sản, tôi bảo thủ
Tôi nhà sưu tập những ảnh tượng thánh cũ,
 
(Tôi du khách hạng sang)
 
Tôi kẻ ăn trộm gà
Tôi vũ công bất động trên không,
 
Tôi đao phủ không trùm đầu
Tôi bán-thần linh Ai-cập với đầu chim,
 
Tôi đứng trên một tảng đá bằng bìa :
Hãy có bóng tối
Hãy có hỗn mang,
                          hãy có mây,
 
Tôi bẩm sinh can phạm
Bị bắt quả tang
Đang trộm hoa dưới ánh trăng,
Xin lỗi các người, phải hay quấy, ngay hoặc gian
Nhưng tôi không nhận mình có tội.
 
------------------------------------------
* một con sông nhỏ rất dơ ở thị trấn Chillán, nam Chi-lê.
** vũ điệu hai người, được coi như vũ điệu dân tộc của Chi-lê. (người dịch)
 
 

TÔI KHUI MỘT CHAI NỮA

 
và tiếp tục cuộc khiêu vũ thường lệ
 
tôi duỗi một ống chân
cũng rất có thể là một cánh tay
tôi gập một cánh tay
cũng rất có thể là một ống chân
 
tôi ngồi xổm và không ngừng nhảy múa
mở khóa mấy ông giầy
ném một ông lên cao hơn cả trời
vùi ông kia thật sâu dưới lòng đất
 
bây giờ tôi đã bắt đầu cởi bỏ áo chẽn
 
đúng lúc này tôi nghe chuông điện thoại
người ta gọi tôi từ bà văn phòng
tôi đáp lại rằng tôi tiếp tục nhảy múa
cho đến khi bọn họ tăng lương cho tôi.
 
 

CÓ AI ĐÓ Ở ĐẰNG SAU TÔI

 
đọc từng chữ tôi viết
từ bên trên vai trái tôi
và trâng tráo cười nhạo những vấn đề của tôi
một ông mang trượng và khoác áo chùng
 
tôi nhìn nhưng không thấy ai hết
thế nhưng tôi biết có ai đó đang rình tôi.
 
 

HASTA LUEGO *

 
Đã tới giờ cáo biệt
Tôi biết ơn hết thảy
Những người bạn tự mãn
Cũng như những kẻ thù năng nổ.
Những nhân vật ghê gớm không sao quên được!
Khốn nạn thân tôi
nếu như tôi đã không giành được
ác cảm chung của hầu như tất cả :
Chào lũ chó hạnh phúc
Ra sủa ta trên đường!
Ta cáo biệt lũ bay
Với niềm vui lớn nhất ở cõi đời.
 
Cảm tạ, một lần nữa, cảm tạ
Dĩ nhiên là tôi rớt nước mắt
Chúng ta sẽ lại tái ngộ
Ngoài biển, trên đất liền ở đâu đó
Các người hãy giữ gìn sức khỏe, hãy viết thư cho tôi
Hãy tiếp tục làm bánh mì
Cứ dệt tiếp những mạng nhện
Tôi mong ước các người được hết mọi điều chúc tụng
Và thời gian vui hưởng chúng :
Ở giữa những chiếc nón tai lừa**
Của những cây mà chúng ta thường gọi là trắc-bá
Tôi trông đợi với cả răng lẫn lợi
 
-----------------
* Tạm biệt.
** cucuruchos. (người dịch)
 
 

CON NGƯỜI HIỆN ĐẠI

 
đã sa vào một chiếc bẫy
y chỉ còn lại bảy con đường
nhưng không một con đường nào dẫn tới La-mã.
 
 

BẢY

 
những chủ đề căn bản của thơ trữ tình có bảy
thứ nhất là bụng dưới của một thiếu nữ
rồi đến vầng trăng tròn bụng dưới của trời
những lùm cây nhỏ trĩu nặng những chim
một buổi hoàng hôn tựa như một tấm bưu ảnh
nhạc cụ mà người ta kêu bằng đàn vĩ cầm
và sự diệu kỳ tuyệt đối của một chùm nho.
 
(Thơ khẩn cấp, 1972)
 

XIN LỖI NÓI THẲNG

 
Cả đến ngôi sao trên chiếc nón bê-rê của người
«Chỉ huy trưởng» à tôi thấy cũng giả ...
thế nhưng những giọt nước mắt vẫn lăn trên má tôi
 
Con bướm
muốn thấy cách nó bay
cần phải bứt cánh nó
 
Bị bắt buộc phải sống
trong một thế giới không ai tạo ra
và là nơi chỉ được phép chết
 
(Artefactos, 1972)
 
 

* * *

 
Người Chi-lê thật khó hiểu
những người còn ở lại đây
chỉ nghĩ tới bỏ đi
«cái xứ này chả được tích sự gì hết»
những kẻ đã bỏ đi chỉ mơ ước trở lại
thật vô ích vì họ không thể
lạy mẹ chúng tôi ở trên trời
nguyện danh mẹ cả sáng
xin mẹ hãy để họ trở lại quê hương xứ sở
lại chớ để họ phải chết trong lưu đày.
 
(Nuevos sermones y prédicas del Cristo de Elqui, LVII, 1979)
 

*

 
Chi-lê trước hết là một xứ của các nhà văn phạm
một xứ của các nhà chép sử
một xứ của các nhà thơ
lúc này ấy là một xứ của ... chấm chấm chấm.
 
 
*
 
Tra tấn chả cần phải
đẫm máu
với một nhà trí thức
chẳng hạn,
chỉ cần giấu đôi kính của y.
 
(Chistes parRa desorientar a la policía, 1983)
 
 

CHUYẾN TÀU TỚI LIỀN

 
(giữa Santiago và Puerto Montt)
 
đầu máy của chuyến tàu tới liền
nằm ở nơi tới (Puerto Montt)
và toa tàu chót
ở điểm khởi hành (Santiago)
 
cái lợi lớn của loại tàu này
là ở chỗ hành khách tới Puerto Montt
ngay khi lên toa chót ở Santiago
 
chuyện duy nhất y cần phải làm kế đó
là xách hành lý
bước qua con tàu
cho đến khi tới toa tàu đầu tiên
 
thực hiện xong chuyện này
khách có thể rời khỏi con tàu
con tầu vẫn hoàn toàn bất động
trong suốt lộ trình ấy
ghi chú : con tàu tới liền chỉ sử dụng cho các chuyến
đi. Muốn quay về cần một con tàu ngược lại.
 
 

MONA LISA

 
như mọi bức tranh nổi tiếng
trội hơn hẳn 100%
nếu ta treo lộn ngược
 
chỉ cần xoay 180°
chả cần phải vẽ thêm râu mép
 
 

CON NGƯỜI Y TƯỞNG TƯỢNG

 
Con người y tưởng tượng
sống trong một khu nhà y tưởng tượng
ở giữa những tàng cây y tưởng tượng
bên bờ một dòng sông y tưởng tượng
 
trên những vách tường y tưởng tượng
treo những bức tranh cổ y tưởng tượng
những vết nứt không thể hàn gắn y tưởng tượng
cho thấy những hình ảnh y tưởng tượng
xẩy ra ở những thế giới y tưởng tượng
ở những nơi chốn và thời gian y tưởng tượng
 
hết mọi buổi chiều—những buổi chiều y tưởng tượng
y trèo lên những bậc thang y tưởng tượng
và bước ra hàng lan can y tưởng tượng
ngắm nhìn quang cảnh y tưởng tượng
trong một lòng thung y tưởng tượng
vây quanh bằng những ngọn đồi y tưởng tượng
 
những bóng ma y tưởng tượng
bước xuống con đường y tưởng tượng
hát những bài hát y tưởng tượng
với vầng mặt trời lặn y tưởng tượng
 
và vào những đêm có vành trăng y tưởng tượng
y mơ tới người đàn bà y tưởng tượng
người đã đem lại cho y tình yêu y tưởng tượng
y cảm thấy cùng một nỗi đau ấy
cùng một niềm hoan lạc y tưởng tượng
và trái tim y lại bắt đầu nẩy đập
trái tim của con người y tưởng tượng
 
(Poemas inéditos, 1984)
 
-------------
Đã đăng:
 
---------------------------
Ghi chú của người dịch:
NICANOR PARRA là một trong những nhà thơ danh tiếng của châu Mỹ la-tinh. Ông sinh năm 1914 tại Chi-lê, đoạt Giải Văn chương Toàn quốc (Premio Nacional de Literatura) năm 1969, giành được sự tán thưởng của nhiều nhà thơ trẻ ở trong nước cũng như ở hai vùng châu Mỹ, và thiện cảm của nhiều người khác trên thế giới. Ông cũng là một giáo sư đại học về Toán và trong đời, đã có khá nhiều “kẻ ái mộ”...
 
Theo Saul Yurkevich, nhà thơ và cũng là nhà phê bình văn chương (người Á-căn-đình/Argentina), «Các nhà thơ của những năm sáu mươi đã tựa vào Nicanor Parra để thách thức sự sùng bái từ chương và những thứ hòa điệu tối thượng, để tước bỏ tính cách thánh thiêng của cái thần bí, làm xẹp lại cái thần thoại, nghi ngờ cái bùa phép. Với Parra, họ đã có thể nhận chìm những thứ đặc quyền mà lời thơ bãi bỏ, đem lời nhại lại đặt đối nghịch với lời sấm truyền, cái đúc sẵn hay làm-sẵn đối lại sự độc đáo, thơ hài hước đối lại thơ vũ trụ; họ đã có thể đùa giỡn, làm thất vọng sự mơ màng đào thoát bằng lời bỡn cợt, thay thế phép xức dầu thánh theo nghi thức bằng cái trào lộng. Nhờ sự bước xuống và tự lột bỏ, không kiểu cách, Parra tạo ra một thứ tâm luyện thanh tẩy. Ông giáng một đòn lớn để đặt lại thi ca trên đất liền vững chắc.» (Trích «Khai từ» trong tuyển tập các nhà thơ Mỹ-Tây ban nha 1960-1995; L'épreuve des mots, nhà xuất bản Stock, Paris, 1996).
 
Tuyển tập Thơ khẩn cấp này tập trung vào các bài trong Poemas de emergencia (1972) của Nicanor Parra nhưng cũng bao gồm một số bài khác trong các thi phẩm của ông trước và sau đó. Bản dịch dựa theo nguyên tác và các bản dịch Anh, Pháp của Edith Grossman, W.S. Merwin, David Unger, Miller Williams, Damian Yurkievich, Henry Deluy... (1998)
 
------------------
Lời toà soạn:
Mời độc giả xem thêm bài viết của Hoàng Ngọc-Tuấn, Nicanor Parra: phản thơ để cứu thơ.

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021