thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
THANG MÁY SÀI GÒN [chương 1-3]

 

CHƯƠNG 1

Paris

 

Năm giờ chiều, khi Paul Polotski mở báo ra đọc thì mây đen bắt đầu kéo tới. Hai người ngồi cách nhau hai chục thước, trên hai ghế đá của một vườn hoa vô danh. Người đàn ông này không hoàn toàn xa lạ với cô. Cô biết ông ta sinh năm nào. Cô biết ông ta sống ở đâu. Thậm chí biết cả mặt vợ ông ta. Một vài thói quen của ông ta, cô cũng bắt đầu nắm được. Từ hai tuần nay, cô đi sau Polotski. Đó không phải là một việc khó: đối tượng của cô hầu như chỉ ra khỏi nhà để đến khoa Đông Âu, nơi ông ta dạy hợp đồng một tuần hai lần, mỗi lần chín mươi phút, như thời khóa biểu đã ghi.

Lần đầu theo Polotski tới trường, trong lúc ông ta rẽ qua văn phòng khoa, cô đã nhanh chân lẻn vào giảng đường, định tìm một chỗ kín đáo để ngồi nhưng không thành: giảng đường mênh mông chỉ có ba sinh viên, thấy cô một cậu tóc rễ tre ngẩng đầu lên nói “nhầm lớp rồi”. Cô đành xin lỗi và đi ra. Một lát sau, đứng ở một góc không xa, cô nhìn ông ta uể oải bước trên hành lang, uể oải rẽ vào giảng đường, rồi uể oải khép cửa lại. Chín mươi phút tiếp theo, khi đã ngồi trên một chiếc ghế dựa, cô ngáp và tưởng tượng rằng, sau cánh cửa kia, ông ta đang uể oải giảng, còn ba sinh viên thì uể oải nghe, đến giữa buổi cả bốn lăn đùng ra làm một giấc, cậu tóc rễ tre lúc nãy ngáy khò khò, thỉnh thoảng ú ớ một câu gì đó, dường như là “nhầm lớp rồi” và hướng thẳng về phía Polotski vì cậu ta ngồi ngay hàng đầu, đối diện với bục giảng.

Cô mở mắt khi Polotski đã ở đầu kia của hành lang. Mới đầu cô ngỡ là đang mê ngủ và định thiếp thêm vài phút nữa bởi đêm qua hầu như cô không chợp mắt chút nào. Nhưng một giọng quen quen đã đánh thức cô dậy. Cậu tóc rễ tre hỏi to: “Ngủ ngon chứ?”, không phải hướng về cô mà một ai đấy ở đầu kia của điện thoại cầm tay. Cô chạy vào tàu điện ngầm đúng lúc cửa tàu chuẩn bị sập lại, tay va phải lưng của Polotski. May mà tàu khá đông nên ông ta chẳng buồn phản ứng. Ra khỏi tàu, ông ta không về nhà ngay. Vườn hoa công cộng không có đài phun nước, nhưng có rất nhiều cẩm tú cầu đỏ, nằm cách căn hộ của ông ta mươi phút đi bộ. Ông ta cắm cúi đọc báo, một tờ báo mang sẵn trong cặp. Theo đối tượng đến lần thứ ba, cô hiểu rằng đọc báo ở vườn hoa không phải là ngẫu hứng, mà là thói quen của Polotski. Cô không biết thói quen này hình thành từ bao giờ, nhưng cô tự hỏi tại sao ông ta không ở lại cho tới hết buổi chiều. Dù sao thì cô cũng có cảm giác chẳng ai đang đợi ông ta ở nhà.

Trời tối dần. Có những tiếng sấm. Và hình như có cả những ánh chớp. Cô quay đầu nhìn Polotski một lần nữa. Không hiểu hôm nay có việc gì xảy ra với ông ta. Từ lúc ra khỏi nhà, khuôn mặt ông ta đã đờ đẫn khác thường. Bước chân cũng chậm chạp quá mức. Cô phải liên tục giảm tốc độ để không bất ngờ vượt lên trước. Giảng đường hôm nay ba sinh viên vẫn chuyên cần ngồi đợi, cậu tóc rễ tre vẫn chiếm vị trí hàng đầu, đối diện với bục giảng, để cô lại gật gù chín mươi phút trên ghế dựa, trong một góc hành lang. Sau đó, tất cả tuần tự như mọi khi, trừ việc ông ta nấn ná trong vườn hoa, mây kìn kịt, cẩm tú cầu ủ rũ, ghế đá nóng rãy đùi.

Không một bóng người. Không một bóng mèo. Tất cả đang đợi một cơn mưa lớn. cô tưởng tượng rằng hơn một tiếng đồng hồ vừa qua ông ta chỉ mở báo rồi để đấy bởi đầu óc còn bận ở nơi khác. Nhưng nơi nào thì cô không thể biết.

Cô nhớ tới bức ảnh tìm thấy trong cuốn sổ tay của mẹ, bức ảnh đen trắng giấy mịn, bức ảnh chụp Polotski tóc thẫm, mắt trong veo, trong đến độ nếu không nhìn thấy toàn thân người trong ảnh thì cô đã nghĩ đó là cặp mắt của một đứa trẻ con. Lần đầu tiên giáp mặt Polotski cách đây hai tuần, cô giật mình: mái tóc thẫm trong ảnh giờ đây đã bạc trắng, còn cặp mắt trong veo thì bị che lấp bởi cặp kính to bản. Nửa thế kỷ đã trôi qua.

Cô nhìn những bông hoa ủ rũ. Ngay từ khi bắt đầu theo dõi Polotski, cô đã tự hỏi dưới cõi âm, mẹ nghĩ thế nào khi biết cô tìm hiểu bí mật của mẹ, bí mật mà mẹ từng âm thầm giữ kín từ nhiều năm nay, không muốn và có lẽ cũng không dám chia sẻ cùng ai. Cuốn sổ tay mẹ đã mang theo người cả những ngày cuối đời, trước khi chết còn cất kỹ trong gối.

Mưa đã rơi. Trong khi những hạt nước thi nhau trút xuống thì từ dưới đất, hơi nóng cũng hừng hực dâng lên. Mặt đường như được một làn khói mỏng bao phủ. Cô mở ô. Polotski vẫn bất động ở ghế đá, tay đặt trên gối còn mắt nhìn xuống đất. Chỉ một loáng những sợi tóc bạc đã ướt sũng, nước loang lổ trên vai và ngực áo sơ mi. Cô ngập ngừng. Cô vừa muốn chạy tới che ô cho ông ta, vừa muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông ta cứ tiếp tục ngồi dưới mưa như thế.

Polotski đứng dậy rồi uể oải rút từ trong cặp ra một chiếc ô. Toàn bộ khuôn mặt đẫm nước. Cô đợi mãi mà ông ta không tháo cặp kính to bản. Sát vỉa hè, nước làm thành một dòng suối nhỏ cuồn cuộn chảy. Cô lặng lẽ đi sau ông ta. Hai chiếc ô chuyển động nhấp nhô rồi biến mất trong vô vàn những chiếc ô khác giữa ngã tư.

Mưa hối hả rơi. Người hối hả đi. Tháng Sáu năm nay mưa nhiều vô kể.

 

 

CHƯƠNG 2

Sài Gòn

 

Đêm mưa tầm tã. Đêm mưa trái mùa năm 2004, mẹ em qua đời, vì một tai nạn phi lý, có lẽ chưa kịp có tên trong tiếng Việt. Anh Mai, anh trai duy nhất của em, xây ngôi nhà không biết thứ bao nhiêu, vẫn cao tầng, nhưng lần này quyết định lắp thang máy tư gia, nghe nói là đầu tiên của cả nước. Để đánh dấu sự kiện này, anh mua vé máy bay mời mẹ vào Sài Gòn. Anh bảo, mẹ phải bấm nút khánh thành thang máy, đi một vòng từ tầng trệt lên tầng thượng, quay trở lại, thì khách mới có quyền sử dụng. Anh mời cả truyền hình và báo chí tới dự. Không khó hình dung những kịch bản kiểu này, em vẫn dành một buổi tối, ngay sau đám tang mẹ, để xem hết một CD sáu mươi phút cùng một tập mấy trăm bức ảnh. Xem xong, lại ngồi xem tiếp một CD sáu mươi phút cùng một tập mấy trăm bức ảnh nữa, về chính đám tang mẹ, mà bản thân em đã chứng kiến từ đầu tới cuối.

Mẹ bao giờ cũng khác thường, từ nhỏ em đã nhận thấy như vậy, trong đám đông hay đứng một mình, dù là họp đảng ủy hay họp khu phố, dù là nhận bằng khen hay trao phần thưởng, và bây giờ, trên bàn thờ, giữa những người đã khuất, những người thân của mẹ, ông bà nội ngoại, anh chị của mẹ... Và cả bố nữa. Anh Mai đã cố tình để hai tấm chân dung sát nhau, trước mặt bày bình hoa hồng đỏ, thế nhưng bố và mẹ vẫn cứ như những kẻ xa lạ, như chưa từng cùng đăng ký kết hôn, chưa từng sống với nhau hai mươi năm, chưa từng có hai đứa con (là anh Mai và em) rồi hai đứa cháu (là cái Ngọc con anh Mai và thằng Mike con em). Suốt buổi tối, em đã thử nhiều lần, những lúc còn tỉnh táo và cả khi bất ngờ chợp mắt, mà không sao hình dung lại cảnh gia đình ngày trước, khuôn mặt mẹ thì rõ mồn một, còn khuôn mặt bố liên tục phải nhờ đến sự trợ giúp của tấm chân dung, tấm chân dung giữa hoa hồng đỏ và hương khói nghi ngút. Bố mất trước mẹ mười năm.

Bữa cơm tối có hai anh em và hai đứa trẻ. Anh Mai bảo: Thanh tra hãng thang máy Đức gửi sang tìm mãi vẫn chưa ra nguyên nhân tai nạn. Họ bảo không hiểu tại sao buổi khánh thành, thang máy chạy êm, ba hôm sau vẫn chạy êm, sau tai nạn vẫn chạy êm, thế mà mẹ lại bị rơi vào khoảng trống, từ tầng thượng xuống tận tầng trệt, nơi hộp thang nằm lì như không nhận được lệnh nào. Anh thì không hiểu tại sao đêm muộn như thế, trời mưa to, mà mẹ lại ở tầng thượng, và ở trên đấy khá lâu. Anh nhớ là tối ấy, anh nằm ở xa lông xem thi hoa hậu từ sớm rồi ngủ luôn tại đi văng, cái Ngọc thì ở nhà mẹ nó, nhân viên về hết chỉ còn mỗi bà giúp việc, nếu có lên các tầng trên để lau dọn thì cũng chỉ chín giờ tối là xuống phòng riêng đi nghỉ. Trong buổi hỏi chuyện của thanh tra nước ngoài, bà ấy cũng khai như thế, và bằng chứng là hộp thang đã dừng lại ở tầng trệt, nơi có phòng riêng của bà ấy. Vậy có nghĩa là mẹ đã sử dụng thang máy để lên tầng thượng trước cả chín giờ tối, sau đó đến lượt bà giúp việc lấy thang máy để quay trở về tầng trệt, rồi khoảng hai giờ đêm khi mẹ bấm thang máy để đi xuống, cửa mở ra, mẹ bước vào thì hộp thang lại không có ở đó. Tai nạn đã xảy ra vào hai giờ đêm. Hai giờ đêm, bác sĩ pháp y đã nhận định mẹ mất vào hai giờ đêm. Thế từ chín giờ tối tới hai giờ đêm mẹ làm gì trên tầng thượng?

Em im lặng. Em cũng không hiểu mẹ làm gì trên tầng thượng từ chín giờ tối tới hai giờ đêm? Người ta có thể làm gì trên tầng thượng từ chín giờ tối tới hai giờ đêm? Có gì để mà làm trên tầng thượng từ chín giờ tối tới hai giờ đêm?

“Thi thể của cụ nhà rơi từ tầng thượng xuống tầng trệt nát bấy, chỉ còn mỗi khuôn mặt là nguyên vẹn”, bà giúp việc nhà anh Mai kể với em về tai nạn của mẹ như vậy. Em cho là bà ấy cũng không biết gì hơn, vì tai nạn xảy ra theo nhận định của bác sĩ pháp y là vào hai giờ đêm, lúc mọi người đều đã ngủ say. Nhưng hai giờ đêm hay mấy giờ đêm thì có thay đổi được gì. Mẹ đã mất rồi. Em không thể không hình dung cảnh mẹ rơi từ tầng thượng xuống tầng trệt, trong khoảng không hình ống tối tăm của thang máy. Và em có cảm giác như trong lúc rơi, mẹ đã cố hết sức ngẩng cổ lên, và dùng cả hai tay quấn quanh đầu để tránh cho khuôn mặt bị tổn thương, tuy rằng như thế thì đau hơn rất nhiều, vì không thể ngất đi ngay lập tức, mà phải tiếp nhận cơn đau cho tới tận lúc não ngưng hoạt động hoàn toàn.

Cũng theo bà giúp việc thì vì thi thể nát bấy của mẹ mà thợ may và các nhân viên tang lễ phải làm việc liên tục ba ngày, trong khi đó chuyên gia hóa trang chỉ mất có mấy tiếng đồng hồ. Lúc em vào tới nơi thì khuôn mặt mẹ đã được trang điểm kỹ, có cả phấn nền, có cả mascara, những thứ bình thường mẹ không sử dụng bao giờ. Thi thể mẹ, mặc áo dài gấm đen, xung quanh phủ hoa hồng đỏ, được đặt trong quan tài kính có gắn điều hòa và máy khử mùi, quan tài kính lại được đặt trong nhà tang lễ bệnh viện quốc tế. Anh Mai chỉ đồng ý cho khách tới viếng khi mọi thứ đã xong xuôi, ngay cả em cũng phải chấp thuận điều kiện ấy. Thực ra thì tự trong lòng, em cũng chỉ phản đối một cách yếu ớt. Em cũng sợ phải chứng kiến tận mắt một thi thể nát bấy, của mẹ hay của ai cũng vậy. Tưởng tượng dù sao cũng đỡ sợ hơn, nhất là trong những trường hợp như thế này. Nhưng cũng có lẽ vì thế mà khi nhìn thấy mẹ trong quan tài kính, nguyên vẹn, áo dài gấm và hoa hồng đỏ, phấn nền và mascara, em có cảm giác mẹ đang diễn vai người chết và không khóc được tiếng nào. Mà khóc sao được khi phòng tang lễ bệnh viện quốc tế sạch sẽ lịch sự, nhân viên phục vụ tận tụy tươi cười, ngay cửa ra vào đã treo biển song ngữ Anh-Việt: TRÂN TRỌNG ĐỀ NGHỊ KHÔNG GÂY ỒN ÀO MẤT TRẬT TỰ.

Đám tang mẹ một tay anh Mai đảm trách. Khách tới dự phần lớn là bạn làm ăn của anh, trang phục đen từ đầu tới chân, mỗi người khệ nệ một vòng hoa khổng lồ, xe hơi nêm chặt cổng nghĩa trang. Một đội kèn đồng tám com lê trắng đồng phục như tám anh em ruột. Chục thanh niên cầm máy ảnh bấm lia lịa, không hiểu thợ ảnh hay nhà báo. Chục thanh niên khác, cầm điện đài di động đi đi lại lại, không hiểu là nhân viên của anh Mai hay bảo vệ phường. Một khu đất bề thế, xung quanh bao tường dày, ở giữa xây sẵn một nhà mồ bằng đá hoa cương xanh, hai bên có hai cây bách trăm tuổi, chính giữa là một lư hương cao xấp xỉ đầu người. Quan tài kính đặt trước lư hương, đầu quay về hướng Đông, chân xuôi theo hướng Tây. Mặt trời buổi sớm chênh chếch. Mây nhè nhẹ trôi. Hoa hồng đỏ thoang thoảng. Amazing Grace. Kính trong suốt và nắng tinh khôi, mẹ hiện ra phi thường trong ánh hào quang bí hiểm của cái chết.

Em và anh Mai đứng đối diện với quan tài, tay chắp lại, mặt nghiêm nghị, đầu hơi cúi. Anh áo dài đen quần đen, em áo dài đen quần đen, cùng kiểu, cùng màu, cùng chất liệu với mẹ, cùng thợ may đặc biệt do anh Mai gọi đến, cắt đo cho mẹ trước, sau tới lượt em và cuối cùng là anh Mai. Sáng sớm, em mặc vào, anh Mai nheo mắt bấm điện thoại. Mười lăm phút sau thợ hóa trang đến cùng đồ nghề, khuôn mặt em được trang điểm kỹ, có cả phấn nền, có cả mascara, những thứ bình thường em không sử dụng bao giờ. Anh Mai nheo mắt lần nữa, lại bấm điện thoại. Mười lăm phút sau nhân viên của anh mang về một chiếc mũ màu đen, để trong hộp cũng màu đen, không hiểu mua hay đặt lúc nào mà vừa khít đầu em. Cái Ngọc và thằng Mike cũng có mặt trong đám tang, đứng sau lưng em và anh Mai, trang phục như trang phục của em và anh Mai thu nhỏ. Rất có thể là thợ may đặc biệt, vì đã quá bận với trang phục của người lớn, chẳng còn thời gian để tự tay cắt đo cho hai đứa trẻ, nhưng đã chỉ đạo đám thợ phụ để trang phục của cả nhà, người sống cũng như người chết, đều cùng kiểu, cùng màu, cùng chất liệu. Mọi thứ được làm nhanh gọn và chính xác, như thể cả một ê kíp trợ lý đang đứng sau lưng anh Mai, chỉ đợi anh bấm điện thoại là răm rắp thực hiện.

Khi khách đến dự đã khá đông thì một nhóm quay phim gồm ba người từ từ tiến vào. Người vạm vỡ nhất cũng là người trẻ tuổi nhất vác trên vai máy quay to, ống kính để mở và tiếp tục phát ra những tiếng kêu khe khẽ. Có vẻ như cả nhóm vừa làm một vòng nghĩa trang để quay cảnh phụ, bây giờ đã sẵn sàng cho cảnh chính. Người bé nhỏ nhất cũng là người lớn tuổi nhất rất có dáng thư ký, lăm lăm trong tay cuốn sổ ghi chép và điện thoại di động, thỉnh thoảng ngẩng lên trao đổi với người thứ ba – cao, gầy, ria con kiến, đội mũ phớt và ngậm tẩu, không nghi ngờ gì nữa chính là trưởng nhóm. Trưởng nhóm chỉ tay về phía quan tài, nhà quay phim trẻ lập tức tiến lại, chĩa ống kính thẳng vào khuôn mặt mẹ, quay mấy phút liền, rồi bắt đầu thả ống kính, quay toàn thân, và sau đó còn quay những gì nữa thì em không rõ lắm vì đầu liên tục ở vị trí hơi cúi. Ai đó chợt nắm tay em, hóa ra thư ký, có lẽ quá bé nhỏ nên ra hiệu cho em cúi đầu thêm chút nữa, để có thể nói thầm vào tai em rằng bây giờ sẽ tới lượt em, nghĩa là khuôn mặt em sẽ trở thành tâm điểm của ống kính. Em chưa kịp phản ứng thì thư ký giải thích rằng em sẽ phải giữ làm sao để mắt không chớp trong vài phút liền, để lên hình không giống đang ngủ gật, rằng trường hợp của em nên thận trọng vì chiếc mũ màu đen hắt bóng tới tận môi trên. Em im lặng gật đầu. Đây là lần đầu tiên em đối diện với máy quay phim, lại máy quay phim chuyên nghiệp. Em tưởng tượng, thư ký bé nhỏ phải đi một vòng hoặc vài vòng, để dặn dò vào tai tất cả những ai sẽ có vinh dự trở thành tâm điểm của ống kính như em vừa rồi. Tất nhiên có những người hiểu ngay và có những người không hiểu gì cả, thế là sẽ phải nhắc lại, và không được nói to sợ ảnh hưởng tới không khí chung. Có khi một câu mà phải nói tới cả trăm lần không biết chừng. Thư ký trường quay hóa ra là một nghề không dễ chút nào.

Khi nắng vẫn còn chưa gắt, mây vẫn nhè nhẹ trôi và hoa hồng tỏa hương ngào ngạt, Amazing Grace chuyển sang Hoài Niệm, lễ hạ huyệt bắt đầu. Khoảng năm phút thì nhạc hết, anh Mai đọc một điếu văn ngắn, đại khái gia đình chúng tôi vô cùng biết ơn sự quan tâm của quý vị đối với thân mẫu của chúng tôi, thân mẫu của chúng tôi sinh thời ưa sống giản dị nên xin được ra đi trong yên tĩnh, thương tiếc nên giữ trong lòng, sầu bi là điều không cần thiết. Diễn văn kết thúc, cử tọa im phăng phắc (có cảm giác còn nghe thấy cả tiếng xè xè của máy quay phim), có lẽ một phần bởi đề nghị trực tiếp của anh Mai, nhưng em cho rằng phần lớn là do khách tới dự quá ấn tượng khi nhìn thấy mẹ trong quan tài kính. Ai nấy tự động xếp những vòng hoa khổng lồ vào một góc, sau đó đứng thành mấy hàng song song, tay chắp lại, mặt nghiêm nghị, đầu hơi cúi, chỉ đợi anh Mai đọc xong điếu văn là nối đuôi đi ra chiêm ngưỡng mẹ một lần nữa. Làm một vòng quanh miệng huyệt, trong tiếng kèn đồng vừa quay về Amazing Grace, mỗi người dừng lại một lát, ném xuống một bông hồng đỏ, một nắm đất con con, quay sang bắt tay anh Mai rồi bắt tay em, im lặng, đầu vẫn tiếp tục hơi cúi cho tới lúc về lại chỗ của mình. Cử chỉ, vẻ mặt đều tăm tắp như thể đã được tập luyện trước đó bao lần.

Anh Mai bắt tay từng người nói cám ơn, em cũng bắt tay từng người nói cám ơn. Anh Mai gật đầu, em cũng gật đầu. Anh Mai gọi người ấy là chị, em cũng gọi là chị, gọi là bà, em cũng gọi là bà, gọi là ông, em cũng gọi là ông. Tóm lại, anh Mai làm gì, em làm nấy. Chỉ có lúc anh đọc điếu văn là em phải đứng một mình, hết nhìn mẹ trong quan tài kính lại nhìn hoa hồng đỏ, nhìn đất mới đào, nhìn ổ kiến lửa cạnh gốc cây bách, đầu vẫn hơi cúi, mặt vẫn nghiêm nghị, tay tiếp tục chắp. Hai mươi phút cũng nhanh chóng trôi qua, chiếc mũ đen vẫn yên vị trên đầu. Kể ra chẳng có gì là khó, chỉ cần tập trung một chút. Ngay cả cái Ngọc và thằng Mike cũng làm được. Xem lại băng video sáu mươi phút và mấy trăm bức ảnh, em nhận thấy rằng đứng sau lưng em và anh Mai, người lớn làm g´, chúng nó làm nấy. Cử chỉ, vẻ mặt của người lớn đều tăm tắp như thể đã được tập luyện trước đó bao lần. Cử chỉ, vẻ mặt của chúng nó cũng đều tăm tắp như thể đã được tập luyện trước đó bao lần. Như thể tất cả những người ở đây không phải đang tiến hành đám tang của mẹ mà đang diễn chung với nhau một kịch bản phim, với một bảng phân vai thế này:

Anh Mai – trong vai con trai trưởng,

Em – trong vai con gái thứ,

Cái Ngọc và thằng Mike – trong vai cháu nội và cháu ngoại,

Khách tới dự – trong vai khách tới dự,

Chục thanh niên cầm máy ảnh – trong vai thợ chụp ảnh kiêm nhà báo,

Mấy chục thanh niên cầm điện đài di động – trong vai bảo vệ phường kiêm nhân viên của anh Mai,

và đương nhiên,

Mẹ – vai người quá cố.

Đám tang mẹ thành tác phẩm điện ảnh (về sau không ít người so sánh với Hollywood), công lao đầu tiên phải kể tới là anh Mai, nhà sản xuất kiêm đạo diễn. Công lao tiếp theo, không kém quan trọng, em mạo muội nghĩ rằng lại thuộc về mẹ. Thuộc về mẹ chứ không ai khác, bằng cách chấp nhận cơn đau khủng khiếp để giữ cho khuôn mặt được nguyên vẹn. Thử tưởng tượng, nếu khuôn mặt mẹ cũng nát bấy như thi thể mẹ, thì phấn nền và mascara cao cấp đến đâu cũng vô tác dụng, chuyên gia hóa trang nhà nghề đến mấy cũng đành bó tay, anh Mai chỉ còn mỗi một cách là đặt mẹ vào quan tài gỗ và trong trường hợp này có lẽ không cần tới áo dài gấm đen và hoa hồng đỏ. Và thế là tài thánh cũng không thể biến đám khách đến dự thành những diễn viên nhu mì và tận tụy, bởi làm thế nào để họ tự động xếp những vòng hoa khổng lồ vào một góc cũng đã là việc không đơn giản chút nào. Đám tang yên tĩnh – lịch sự – có tổ chức sẽ bị thay thế bởi một đám tang ồn ào – dung tục – vô tổ chức. Có vẻ chính sự hiện diện của mẹ, đẹp đẽ và sang trọng trong quan tài kính, như một diễn viên gạo cội, đã truyền hứng diễn cho những người xung quanh. Và kết quả là ai nấy động tác cử chỉ đều tăm tắp như thể được tập dượt trước đó bao lần. Xem lại CD sáu mươi phút và mấy trăm bức ảnh, em ngạc nhiên thấy họ là những diễn viên thực sự có năng khiếu. Em cũng ngạc nhiên khi nhìn mình trong đó. Như thể không phải là em mà là một phụ nữ cỡ tuổi em, có hình thức tương đối giống em, đã được mời đến để thay thế em. Người phụ nữ ấy trang điểm kỹ với phấn nền và mascara, những thứ em chưa sử dụng bao giờ. Người phụ nữ ấy trang phục cầu kỳ với áo dài đen, quần đen, mũ đen – những thứ em cũng chẳng mặc bao giờ. Người phụ nữ ấy có khả năng không chớp mắt mấy phút liền và tỏ ra tự tin trước ống kính quay phim. Người phụ nữ ấy không phải là em.

Em bỗng ngờ rằng khi chứng kiến thi thể nát bấy của mẹ giữa vũng máu, anh Mai cũng vô cùng kinh ngạc phát hiện ra rằng, ngay kề đấy, khuôn mặt mẹ vẫn hoàn toàn nguyên vẹn. Mười mấy năm lập nghiệp ở Sài Gòn đã cho anh không ít cơ hội dàn dựng các kịch bản khác nhau (mà buổi khánh thành thang máy chỉ là một kịch bản khiêm tốn) và đã biến anh thành một đạo diễn có nghề. Gác nỗi xúc động sang một bên, anh lập tức phác họa trong đầu một kịch bản có khả năng khai thác triệt để cái cơ may có thể nói là không ngờ này. Hành động cấp tốc và chính xác như thế nào mới kịp đặt cho mẹ một quan tài kính cỡ lớn, rồi lại chuyên chở từ Singapore về Sài Gòn. Bảy ngày là một cái hạn kỷ lục.

 

 

CHƯƠNG 3

Sài Gòn

 

Người chết thật diễn vai người chết? Không ít đạo diễn từng mời cảnh sát thật diễn vai cảnh sát, gái điếm thật diễn vai gái điếm, bác sĩ thật diễn vai bác sĩ, bệnh nhân thật diễn vai bệnh nhân, người Pháp thật diễn vai người Pháp... nhưng mời người chết thật diễn vai người chết thì có lẽ trong lịch sử điện ảnh Hollywood chưa có trường hợp nào. Tuy vậy, thật ngược đời, điều này có thể xảy ra ở một số quốc gia có nền điện ảnh hoàn toàn vô danh, Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên là một ví dụ. Không biết một năm sản xuất được bao nhiêu bộ phim, nhưng từ khi Kim Nhật Thành qua đời tới nay phải có vài chục tác phẩm điện ảnh chỉ riêng về đám tang của Lãnh tụ Vĩ đại. Tác phẩm điện ảnh chứ không phải phim a-ma-tơ, vì tất cả những người tham gia đều diễn rất đâu vào đấy: tay đấm ngực, chân khuỵu xuống, mặt mếu máo, tóc tơi tả... một rừng người động tác, vẻ mặt đều tăm tắp như thể được tập dượt trước đó bao lần. Rồi các dàn nhạc đồng loạt chơi những bản bi hùng, các MC đồng loạt nói những câu có cánh, các bí thư các đảng cộng sản đồng loạt đọc những lời ngợi ca... Nhưng có lẽ vai diễn sinh động nhất, thuyết phục nhất lại thuộc về chính người chết – Chủ tịch Kim Nhật Thành: đầu đặt trên gối cao, hơi chếch sang trái để che đi khối u lớn mọc sau gáy, toàn thân phủ cờ đỏ rực rỡ, Chủ tịch tám mươi hai tuổi má hồng, da mọng, môi căng, khuôn mặt của tám mươi bức tượng cỡ người thật đặt khắp nơi trên lãnh thổ Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên. Khuôn mặt ấy, ngày hôm nay, còn uy nghi lẫm liệt hơn nữa, dưới ánh hào quang bí hiểm của cái chết.

Em nhớ rằng, đầu tháng Bảy năm 1994, trường Sư phạm Hà Nội gửi lời chia buồn tới trường Sư phạm Bình Nhưỡng, một tuần sau nhận lại một băng video chín mươi phút đám tang Lãnh tụ Vĩ đại, hai tháng sau, nhân liên hoan Quốc khánh mồng Hai tháng Chín, quyết định chiếu chiêu đãi cán bộ và giáo viên toàn trường. Mặc dù đã về hưu, nhưng mẹ vẫn nhận được giấy mời. Sau khi uống nửa ly vang Thăng Long chua ngọt, giữa hàng ghế đầu, mẹ đã ngồi xem bộ phim từ A tới Z, với một cảm giác lâng lâng thoải mái hiếm có. Rồi trong lúc các đồng nghiệp cũ thổn thức trước hình ảnh quan tài kính được vây quanh bởi một rừng người đang đập đầu bứt tai, mẹ đã nhanh chóng phát hiện ra ý tưởng phi thường của các đồng chí đạo diễn điện ảnh Triều Tiên – ý tưởng “người chết diễn vai người chết”. Có lẽ từ giây phút đó trở đi, mẹ bắt đầu mơ màng tới vai diễn cuối cùng của chính mình. Em còn nhớ cả tháng liền, gặp ai mẹ cũng kể về đám tang có một không hai của Kim Chủ tịch, về chiếc quan tài kính mỗi chiều dễ tới tám mét, ban ngày thì rực rỡ dưới ánh mặt trời, ban đêm thì lung linh bởi hàng vạn ngọn nến, và dĩ nhiên về khuôn mặt tươi như hoa của Kim Chủ tịch. Khuôn mặt người chết như thế còn đẹp hơn chân dung người sống. Phải đẹp thế nào mới khiến hai chục triệu người đang sống đập đầu bứt tai đòi được chết theo. “Thật là phi thường!” trở thành câu yêu thích của mẹ, được mẹ nhắc đi nhắc lại, lần nào cũng bằng ngần ấy hân hoan.

Nhưng không phải lúc nào niềm hân hoan của mẹ cũng được chia sẻ. Việt Nam thời điểm đấy đã bắt đầu cơn sốt Đại Hàn. Nghe mẹ ca ngợi đám tang của Kim Nhật Thành, nhiều người nhíu mày bỏ đi. Mẹ cũng đã về hưu, quyền chức không còn, không thể diễn vai tổ trưởng bộ môn hay phó bí thư đảng ủy để chỉ tay vào mặt ai, đề nghị ngồi yên khi cấp trên phát biểu. Nhưng mẹ bất chấp. Cái câu “Thật là phi thường!” vẫn không ngớt phát ra từ miệng mẹ. Trong một tháng liền, mẹ diễn vai “cuồng fan” của Kim Chủ tịch.

Tuy vậy, nhanh chóng phát hiện bao nhiêu thì cũng nhanh chóng thất vọng bấy nhiêu: một tháng sau, mẹ nhận thức được rằng phi thường dễ biến vô tưởng, người chết thật diễn vai người chết, cả Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên chỉ Kim Nhật Thành mới có vinh dự. Cơn thất vọng, chính xác hơn là sự buồn chán đã theo mẹ trong vòng mười năm, bắt đầu ở tuổi lục tuần. Năm 2004, sáu mươi chín tuổi, không biết vì lý do gì mẹ chấp nhận lời mời của anh Mai vào Sài Gòn khánh thành thang máy. Đây là lần thứ hai mẹ vào Sài Gòn. Lần đầu tiên, trước đó hai thập kỷ, mẹ theo đoàn của Sở Giáo dục Hà Nội vào dự hội nghị toàn ngành sư phạm các tỉnh phía Nam. Những năm đầu tám mươi, nhân viên phục vụ nhà khách thành phố vẫn còn nhầm khăn ăn với giấy toa lét nên chuyến đi hầu như không để lại cho mẹ ấn tượng nào. Hai mươi năm sau, ở nhà anh Mai vài ngày, sử dụng thang máy tư gia vài lần, ngồi Mercedes vài buổi, ăn khách sạn năm sao vài bữa, xem phim Mỹ màn ảnh rộng vài tối, cái nhìn của mẹ về Sài Gòn thay đổi hoàn toàn, và giấc mơ về vai diễn cuối cùng lại bắt đầu cựa quậy, tất nhiên không theo tinh thần Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên mà theo tinh thần điện ảnh Hollywood. Nếu buổi khánh thành thang máy với anh Mai là một kịch bản khiêm tốn thì với mẹ, lại trở thành một khám phá quan trọng. Đó là lần đầu tiên mẹ được gặp gỡ giới thượng lưu Sài Gòn. Trong cuốn băng video sáu mươi phút và bộ ảnh mấy trăm bức, em không ít lần bắt gặp mắt mẹ mở to trước một chuỗi vòng cổ lấp lánh, tay mẹ luống cuống khi phải dùng dao dĩa, tai mẹ hướng về hai vị khách nữ đang khoe nhau hai chiếc túi Louis Vuitton. Em cũng không ít lần bắt gặp mẹ thẹn thùng nhìn xuống bộ áo dài ny lông thêu rồng phượng của phố Hàng Đào, đôi giày giả da vừa nặng vừa cứng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, chiếc vòng tay đồi mồi của cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Hà Nội. Đúng thế, ngoài mặt mẹ cố đóng vai người phụ nữ Hà Thành thanh lịch và tự tin, nhưng em biết trong đầu mẹ suy nghĩ rất lung khi bọt sâm banh trào lên trắng xóa, khi đèn flash nháy như sao đêm hè, khi bốn nhân viên của anh Mai khiêng chiếc bánh ga tô khổng lồ tiến vào, khi xung quanh mẹ người ta chúc nhau thu nhập mấy tỉ, du lịch mấy nước, sổ đỏ mấy nhà.

Sáu mươi chín tuổi, mẹ vẫn đủ minh mẫn để ý thức rằng mơ theo Kim Nhật Thành vừa phí phạm thời gian vừa phí phạm sức lực (mười năm liền thất vọng và buồn bã), rằng bước sang thế kỷ 21 chỉ anh Mai mới có khả năng thực hiện ý tưởng năm xưa – ý tưởng “người chết diễn vai người chết”. Để vai diễn cuối cùng của mẹ là vai diễn để đời. Và khác thường cuối cùng của mẹ là khác thường đáng nhớ nhất. Em ngờ rằng khi cân nhắc các khả năng, mẹ cũng thoáng nghĩ tới Hà Nội – nơi mẹ đã trải qua sáu mươi chín năm trên cõi đời này, dù sao thì cũng không thể nói là không gắn bó, rồi lại quyết định chọn Sài Gòn làm địa điểm duy nhất cho đám tang của mình.

Mẹ đã thử tưởng tượng mẹ qua đời ở Hà Nội: anh Mai sẽ cùng vài nhân viên vội vã ra sân bay Tân Sơn Nhất, ba tiếng sau có mặt ở Nội Bài, trên đường về nhà bấm điện thoại cho họ hàng dưới quê sẽ tìm được dăm người cả nam lẫn nữ thuận tình giúp việc khẩn cấp năm ngày, tiền công một triệu trọn gói không kể vé ô tô khứ hồi, sau khi thương lượng một buổi chiều với ủy ban phường và khu tập thể sẽ dựng được một nhà bạt mỗi chiều năm mét trong sân chung của khu, rồi cả ngày hôm sau cũng sẽ tìm được một miếng đất tương đối tinh tươm trong nghĩa trang Văn Điển. Suốt thời gian ấy, mẹ sẽ nằm trên giường, đắp một tấm chăn mỏng, đầu giường để bát cơm và quả trứng luộc, bên cạnh là bàn thờ treo hai tấm phướn màu tím, hương khói chưa bao giờ nghi ngút như thế. Ngày thứ ba sẽ là ngày động quan, pháp sư tới làm lễ cả ngày, đem theo một phường bát âm và hai bà khóc mướn, đêm ngày sẽ thay nhau vật vã, hết khóc hộ anh Mai và em, lại khóc hộ cái Ngọc và thằng Mike, có lúc lại khóc hộ cả bố và các cán bộ giảng dạy trường Sư phạm.

Anh Mai sẽ không tiếc tiền mua cho mẹ một bộ quan tài gỗ, hàng Việt Nam chất lượng cao, bảo đảm ba năm sau bốc mộ vẫn chưa mục. Các nhân viên của anh sẽ làm vài vòng taxi quanh phố cổ Hà Nội rồi mang về cho mẹ một bộ áo dài ny lông, tất ny lông, giày giả da, khuyên, xuyến, kiềng mạ vàng... tất cả đều made in China, nhập cảng không chính thức cửa khẩu Hữu Nghị. Ngày thứ tư sẽ là ngày đưa tang, rất đông người đến dự, đông hơn ở Sài Gòn rất nhiều. Họ hàng, đồng nghiệp, người quen của mẹ phần lớn ở Hà Nội. Phường, quận, thành phố, hội cựu chiến sĩ Việt Minh, trường Sư phạm, Sở Giáo dục... sẽ đều cử đại diện mang vòng hoa tới viếng. Sân khu tập thể suốt ngày nườm nượp người, nhà bạt hai mươi lăm mét vuông hết chỗ, anh Mai sẽ lại một lần nữa thương lượng với phường và khu tập thể để kê thêm chục bộ bàn ghế nhựa trong sân, anh cũng sẽ luôn miệng xin lỗi hàng xóm vì khách đưa tang, trong lúc leo bộ ba tầng thang gác lên thắp hương cho mẹ, có lẽ vì mỏi mệt đã vô ý vặt trụi mấy chậu cây cảnh và để lại một đống rác ngay đầu cầu thang gồm vỏ hương Chí Thành, lá chuối bọc hoa, giấy gói quà cúng... mà những người giúp việc mới ở quê ra còn say xe chưa kịp quét dọn.

Nói chung đám tang của mẹ ở Hà Nội sẽ rất đông. Anh Mai sẽ làm hết trách nhiệm của con trai trưởng. Anh sẽ sẵn sàng thuê vài xe buýt gắn điều hòa chở tất cả khách dự ra nghĩa trang Văn Điển, rồi lại chở về Hà Nội. Anh sẽ chẳng ngại đội mũ rơm và chống gậy. Mấy chục mâm tám bát tám đĩa của cỗ bàn Bắc Bộ anh cũng sẽ không tiếc. Nhưng trách nhiệm nhà sản xuất điện ảnh nằm ngoài kế hoạch của anh, đơn giản vì mọi kịch bản mà anh bỏ vốn đầu tư, làm đạo diễn (và bao giờ cũng giành đóng một vai), là để phục vụ công chúng Sài Gòn, nơi thời điểm nào anh cũng có vài trăm căn hộ và biệt thự đang trong giai đoạn tìm người làm chủ. Phục vụ công chúng Hà Nội thì anh được cái gì? Công chúng Hà Nội có hoan hỉ ngưỡng mộ đám tang đáng tầm Hollywood của mẹ thì cũng hoan hỉ ngưỡng mộ từ xa, chứ đời nào chịu vượt hai nghìn cây số vào tận Sài Gòn, gọi điện tới công ty của anh, nhất định đòi nhân viên bằng mọi cách phải thu xếp cho gặp giám đốc để có thể nói trực tiếp với anh rằng họ đã có dịp theo dõi đám tang yên tĩnh – lịch sự – có tổ chức của thân mẫu anh và vô cùng tự hào khi thấy rằng không phải tất cả người Việt Nam đều chấp nhận thói quen ma chay ồn ào – dung tục – vô tổ chức, và điều ấy chứng tỏ khả năng hội nhập thế giới của Việt Nam. Nhân dịp này, họ cũng muốn được anh chỉ dẫn làm thế nào để trở thành chủ nhà hay làm thế nào để đầu tư vào bất động sản... Anh sẽ mời họ lên xe và bảo tài xế riêng đưa đi thăm một số căn hộ và biệt thự, hoặc đã hoàn thiện hoặc chuẩn bị xây. Vừa giới thiệu chi tiết, anh sẽ vừa ân cần chỉ bảo để giúp họ tìm được ngôi nhà trong mộng phù hợp với hầu bao, để cái đống tiền bắt đầu cồng kềnh của họ được gom gọn lại một cách có ý nghĩa. Trong lúc nói chuyện thế nào anh cũng tìm thời điểm thích hợp để kể về mẹ một cách trân trọng, thêm vài chi tiết hài hước, ví dụ bà cụ không phải là người đề cao tiện nghi vật chất, và từ lâu vẫn có thói quen leo ba tầng cầu thang khu tập thể Hà Nội, nhưng lại mê mẩn thang máy, đến độ tìm mọi cách để sử dụng, sáng trưa chiều tối, thậm chí cả ban đêm (lúc cả nhà đang ngủ say) bấm nút lên tầng thượng hóng gió, tưới hoa, tập thể dục. Người nghe sẽ càng thêm hoan hỉ ngưỡng mộ một bà mẹ tuy đã cao tuổi và có vấn đề về sức khỏe (hẳn đây là nguyên nhân dẫn tới cái chết) mà vẫn lạc quan yêu đời, không bao giờ làm phiền con cháu, mỗi ngày vài lần lên sân thượng hóng gió, tưới hoa, tập thể dục dưỡng sinh. Câu chuyện cứ thế mà lan tỏa. Nói chung, giữa những người lịch sự và có phương tiện thì mọi chuyện đều dễ chịu. Với họ, mua căn hộ sáu buồng như người thường mua bao gạo sáu cân. Căn bản là tạo được niềm tin lẫn nhau. Đương nhiên trong những câu chuyện kiểu này, không có một chữ nào cho tai nạn thang máy.

Tai nạn thang máy mãi mãi là một bí mật của những người trong nhà.

 

[còn tiếp]

 

-----------------------

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021