thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Nghệ thuật văn chương hư cấu [VI]

 

Bản dịch của Phan Quỳnh Trâm,
với sự hiệu đính và chú thích của Hoàng Ngọc-Tuấn.

 

MARIO VARGAS LLOSA

(1936~)

 

Nhân dịp nhà văn Mario Vargas Llosa đoạt giải Nobel Văn chương năm 2010, chúng tôi xin gửi đến văn hữu và độc giả một bài phỏng vấn do Susannah Hunnewell và Ricardo Augusto Setti thực hiện cách đây 20 năm trên tờ Paris Review (Fall 1990, No. 116), trong đó Mario Vargas Llosa đã phát biểu những ý tưởng hết sức thú vị về nghệ thuật văn chương hư cấu.
 
Vì giới hạn của thời giờ, chúng tôi không thể dịch một lần trọn vẹn bài phỏng vấn, mà sẽ chia thành vài đoạn và dịch mỗi ngày một đoạn. Xin mời quý bạn theo dõi cho đến khi bài phỏng vấn kết thúc.
 
Phan Quỳnh Trâm

 

________________

 

Đã đăng: kỳ [I] - [II] - [III] - [IV] - [V]

 

MARIO VARGAS LLOSA: NGHỆ THUẬT VĂN CHƯƠNG HƯ CẤU

(tiếp theo kỳ trước)

 

Susannah Hunnewell và Ricardo Augusto Setti thực hiện

 

NGƯỜI PHỎNG VẤN

Chúng ta đã đề cập đến những tác giả có những tác phẩm mà ông ngưỡng mộ. Bây giờ chúng ta hãy nói về tác phẩm của ông. Có đôi lần ông đã nói rằng Cuộc chiến ngày tận thế là cuốn sách hay nhất của ông. Ông có còn nghĩ như thế không?

 

VARGAS LLOSA

Đó là cuốn tiểu thuyết mà tôi đã bỏ nhiều công nhất, cuốn tiểu thuyết mà tôi đã dốc toàn lực để viết. Tôi mất đến bôn năm để viết nó. Tôi đã phải nghiên cứu nhiều kinh khủng, đọc nhiều kinh khủng, và phải vượt qua những trở ngại lớn lao vì đó là lần đầu tiên tôi viết về một đất nước khác đất nước của tôi, trong một thời đại không phải của tôi, và làm việc với những nhân vật nói một ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ của cuốn sách. Nhưng chưa bao giờ có một câu chuyện nào gây phấn khích cho tôi nhiều bằng câu chuyện đó. Tất cả những gì liên quan đến tác phẩm đó đều mê hoặc tôi, từ những thứ tôi đọc được cho đến chuyến du hành xuyên qua vùng Đông Bắc. Đó là lý do tại sao tôi cảm thấy ưu ái đặc biệt đối với cuốn sách đó. Đề tài đó còn cho phép tôi viết loại tiểu thuyết mà tôi luôn luôn muốn viết, một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, trong đó sự phiêu lưu mạo hiểm là chính yếu — không chỉ là một cuộc phiêu lưu tưởng tượng mà là một cuộc phiêu lưu có liên hệ một cách sâu sắc đến những vấn nạn lịch sử và xã hội. Đó có lẽ là nguyên nhân tại sao tôi xem Cuộc chiến ngày tận thế là cuốn sách quan trọng nhất của tôi. Tất nhiên, những nhận xét như vậy bao giờ cũng rất chủ quan. Tác giả không thể nhìn tác phẩm của mình một cách khách quan đủ để thiết lập những loại hệ thống thứ bậc như thế. Cuốn tiểu thuyết đó trở thành một sự thách thức khủng khiếp mà tôi muốn vượt qua. Lúc đầu, tôi rất lo ngại. Số lượng khổng lồ của những tài liệu nghiên cứu đã làm tôi chóng mặt. Bản thảo đầu tiên của tôi rất đồ sộ, chắc hẳn là dày gấp đôi cuốn tiểu thuyết lúc xuất bản. Tôi tự hỏi làm sao tôi có thể điều phối cả hàng đống những cảnh huống, hàng ngàn những câu chuyện nho nhỏ như thế. Tôi lo lắng suốt cả hai năm. Thế rồi, tôi thực hiện chuyến đi qua vùng Đông Bắc, xuyên qua Sertao, và đó chính là bước ngoặt. Lúc đó tôi đã làm xong một cái sườn ý tưởng. Tôi muốn hình dung ra câu chuyện trước, dựa trên những gì có sẵn trong các tài liệu nghiên cứu, rồi mới thực hiện chuyến đi. Chuyến đi đã chứng thực một số điều và giúp tôi thấu hiểu thêm nhiều điều khác. Tôi cũng đã được rất nhiều người giúp đỡ. Thoạt đầu, đề tài này không phải dành cho cuốn sách mà cho một cuốn phim do Ruy Guerra đạo diễn. Người điều hành Paramount ở Paris lúc ấy, vốn là một người quen biết với tôi, một hôm gọi tôi và hỏi tôi có muốn viết kịch bản cho một cuốn phim họ sẽ sản xuất cho Guerra. Tôi đã xem một trong những phim của ông ấy, Những chiến binh dịu dàng (Tender Warriors), và tôi rất thích; thế là tôi đến Paris để gặp ông ấy. Ông ấy giải thích cho tôi biết ông ấy muốn làm gì. Ông ấy nói trong đầu ông ấy có một câu chuyện ít nhiều liên hệ đến cuộc chiến ở Canudos. Chúng tôi không thể làm một cuốn phim về Canudos, vì đề tài đó quá rộng, nhưng có thể làm về một cái gì có liên hệ ít nhiều đến nó. Tôi không biết gì về cuộc chiến ở Canudos,[1] tôi cũng chưa từng nghe nói về nó. Tôi bắt đầu nghiên cứu về nó, đọc về nó, và một trong những thứ đầu tiên tôi đọc bằng tiếng Bồ-đào-nha chính là cuốn Vùng nội địa [2] của Euclides da Cunha. Đó là một trong những phát hiện lớn trong đời tôi với tư cách là một độc giả, tương tự như việc đọc cuốn Ba chàng lính ngự lâm khi còn nhỏ, hay Chiến tranh và hoà bình, Bà Bovary, và Cá voi trắng khi đã trưởng thành. Quả là một cuốn sách tuyệt vời, một kinh nghiệm căn để. Tôi hoàn toàn bị choáng ngợp vì nó; nó là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất mà Châu Mỹ Latin đã tạo ra được. Đó là một cuốn sách vĩ đại vì nhiều lý do nhưng trên hết vì nó là một cẩm nang cho “tính cách Mỹ Latin” — bạn khám phá ra lần đầu tiên những gì không phải là châu Mỹ Latin. Nó không phải là tổng số của những thứ nó du nhập. Nó không phải là châu Âu, châu Phi, châu Mỹ thời tiền-Hispanic, hay những cộng đồng thổ dân — nhưng cùng một lúc, nó là hỗn hợp của tất cả những yếu tố cùng tồn tại trong một cách thế khắc nghiệt và đôi khi tàn bạo. Tất cả những điều đó đã tạo nên một thế giới mà ít có tác phẩm nào chụp bắt được với một trí tuệ và tài năng văn chương lạ thường như cuốn Những vùng nội điạ. Nói cách khác, người mà tôi thực sự mắc nợ cho sự ra đời của cuốn Cuộc chiến ngày tận thế chính là Euclides da Cunha. Tôi nghĩ là tôi đã đọc gần như tất cả những gì đã được xuất bản về cuộc chiến ở Canudos cho đến lúc ấy. Trước hết, tôi đã viết một kịch bản cho bộ phim không bao giờ được sản xuất vì nhiều vấn đề mà nó gặp phải, những vấn đề cố hữu của ngành điện ảnh. Dự án đã tiến triển khá tốt, việc sản xuất đã bắt đầu, nhưng một ngày nọ Paramount quyết định là bộ phim sẽ không được làm và quả là nó đã không được làm. Đó là một thất vọng đối với Ruy Guerra, nhưng tôi vẫn có thể tiếp tục theo đuổi cái đề tài đã từng làm cho tôi say mê một thời gian dài nhưng chỉ đưa đến một kết quả thật khiêm tốn — suy cho cùng, một kịch bản cũng chẳng to tát gì. Thế là tôi bắt đầu đọc lại, tiếp tục nghiên cứu; và tôi đã đạt đến một đỉnh cao của sự cuồng nhiệt mà ít có cuốn sách nào từng gây hứng khởi cho tôi được như thế. Tôi đã từng làm việc từ mười đến mười hai tiếng đồng hồ một ngày cho dự án đó. Dù vậy, tôi vẫn lo ngại phản ứng của đất nước Brazil đối với nó. Tôi e là nó sẽ bị xem như can dự vào một vấn đề riêng tư... nhất là khi đã có một nhà văn người Brazil từng viết về đề tài đó. Có một vài bài phê bình bất ưng về cuốn sách, nhưng nhìn chung, nó được giới phê bình đón nhận một cách rộng lượng và nhiệt thành — kể cả đại chúng nữa — và điều đó đã làm tôi cảm động. Tôi cảm thấy như được thưởng công cho những nỗ lực của mình.

 

NGƯỜI PHỎNG VẤN

Ông nghĩ gì về cái chuỗi dài của những sự ngộ nhận tiêu biểu cho bản chất của cuộc chiến Canudos: phe cộng hoà cực đoan thấy những người nổi loạn đang có âm mưu lật đổ nền quân chủ và chủ nghĩa đế quốc Anh, trong khi chính những người nổi loạn thì lại tin rằng họ đang chiến đấu chống lại cái ác. Phải chăng người ta có thể gọi đây là một lối ẩn dụ về ý thức hệ?

 

VARGAS LLOSA

Có thể đối với một người Mỹ Latin thì giá trị của cuộc chiến Canudos nằm ở đó, bởi vì sự mù-quáng-hỗ-tương sinh ra từ nhãn quan cuồng tín về thực tại cũng chính là sự mù-quáng-hỗ-tương ngăn cản tầm mắt của chúng ta trước những mâu thuẫn giữa hiện thực và các viễn kiến mang tính lý thuyết. Bi kịch của Châu Mỹ Latin là ở chỗ, vào những thời điểm khác nhau trong lịch sử, bởi vì chính sự mù-quáng-hỗ-tương ấy mà các quốc gia của chúng tôi đã tự chia rẽ và lâm vào những cuộc nội chiến, những cuộc đàn áp khốc liệt, những cuộc thảm sát như ở Canudos. Có lẽ một trong những lý do khiến tôi bị cuốn hút vào đề tài cuộc chiến Canudos chính là vì hiện tượng đó có thể được khảo sát trong phạm vi thu nhỏ, như trong phòng thí nghiệm, có thể nói như thế. Nhưng rõ ràng, đó là một hiện tượng chung: sự cuồng tín và sự bất khoan dung đè nặng lên lịch sử chúng tôi; dù đó là những cuộc nổi loạn mang tính tôn giáo, những cuộc nổi loạn theo chủ trương xã hội chủ nghĩa hay không tưởng, hay những tranh chấp giữa phe bảo thủ và phe cấp tiến. Và nếu nó không phải là do người Anh nhúng tay vào, thì nó cũng là do đế quốc Mỹ, hay do đám hội viên Hội Tam Điểm, hay là do ma quỷ gì đó. Lịch sử của chúng tôi đã được đánh dấu bởi sự bất lực của chúng tôi trong việc chấp nhận những sự bất đồng về quan điểm.

 

NGƯỜI PHỎNG VẤN

Có một lần ông viết rằng chưa có một tác phẩm nào khác của ông thích ứng với cái lý tưởng huyền hư của tiểu thuyết như cuốn sách này. Ý của ông là thế nào?

 

VARGAS LLOSA

Tôi nghĩ tiểu thuyết, như một thể loại, thiên về sự thái quá. Nó có khuynh hướng tăng trưởng nhanh chóng, cốt truyện phát triển như một căn bệnh ung thư. Nếu tác giả theo đuổi mọi đầu mối của cuốn tiểu thuyết, nó sẽ trở thành một khu rừng rậm. Tham vọng kể toàn bộ câu chuyện là đặc tính cố hữu của thể loại này. Mặc dù tôi luôn cảm thấy đến một thời khắc nào đó bạn phải giết chết câu chuyện để nó không kéo dài vô tận, tôi cũng tin rằng việc kể chuyện là một nỗ lực để đạt tới cái lý tưởng của cuốn tiểu thuyết “trọn vẹn” ấy. Ở phương diện đó, cuốn tiểu thuyết mà tôi đã theo đuổi xa nhất chính là Cuộc chiến ngày tận thế, không còn nghi ngờ gì nữa.

 

đọc tiếp kỳ [VII]

 

------------------
Dịch từ bản tiếng Anh, “Mario Vargas Llosa, The Art of Fiction No. 120”, Interviewed by Susannah Hunnewell, Ricardo Augusto Setti, Paris Review (Fall 1990, No. 116).

 

_________________________

[1]Năm 1897, một đám rất đông dân làng bất mãn do cố đạo Antonio Marciel cầm đầu đã chiếm thị trấn Canudos ở vùng nội địa "sertões" của Ba-tây thuộc bang Bahia. Dưới sự chỉ đạo của Maciel, người nổi danh dưới biệt hiệu "ngài Cố vấn", họ tuyên bố Canudos là một lãnh thổ độc lập. Cuối cùng, sau khi các nỗ lực khống chế của cảnh sát và quân đội đều thất bại, chính ông Bộ trưởng quốc phòng Ba-tây đã đứng ra chỉ huy một đạo quân đến đó và dập tắt cuộc nổi loạn.

[2]Nguyên tác tiếng Bồ-đào-nha của Euclides da Cunha có nhan đề là Os Sertões (1902).

 

------------

Đã đăng:

[NOBEL VĂN CHƯƠNG 2010] ... Khi còn trẻ, tôi rất mê đọc Sartre. Tôi cũng đọc các tiểu thuyết gia người Mỹ, đặc biệt của thế hệ lạc loài — như Faulkner, Hemingway, Fitzgerald, Dos Passos — nhất là Faulkner. Trong số các tác giả tôi đọc khi tôi còn trẻ, Faulkner là một trong số ít những người vẫn còn có ý nghĩa rất lớn đối với tôi. Tôi chẳng bao giờ thất vọng khi đọc lại ông, như cái cách mà tôi vẫn thỉnh thoảng cảm thấy khi đọc lại Hemingway, chẳng hạn. Tôi cũng sẽ không đọc lại Sartre vào lúc này. So với mọi thứ tôi đã đọc từ thuở đó đến nay, thì tác phẩm hư cấu của Sartre có vẻ đã lỗi thời và đã mất đi phần lớn giá trị của nó... [Bản dịch của Phan Quỳnh Trâm, với sự hiệu đính và chú thích của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
[NOBEL VĂN CHƯƠNG 2010] ... Tôi chưa bao giờ có cảm giác rằng tôi đã quyết định một cách duy lý, một cách lạnh lùng, để viết một cái truyện. Trái lại, những sự kiện hoặc những con người nào đó, đôi lúc những giấc mơ hay những gì đọc được trong sách vở, bất ngờ bám lấy tôi và đòi hỏi sự lưu tâm. Đó là lý do tại sao tôi nói rất nhiều về tầm quan trọng của những yếu tố hoàn toàn phi lý của công việc sáng tạo văn chương. Tôi tin rằng sự phi lý này cũng phải được chuyển tải đến người đọc. Tôi muốn những cuốn tiểu thuyết của tôi được đọc như cách tôi đọc những cuốn tiểu thuyết mà tôi yêu thích... [Bản dịch của Phan Quỳnh Trâm, với sự hiệu đính và chú thích của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
[NOBEL VĂN CHƯƠNG 2010] ... Tôi không bao giờ biết khi nào thì tôi sẽ kết thúc một câu chuyện. Một mẩu chuyện tôi tưởng chỉ mất vài tháng đôi khi có thể mất vài năm để hoàn thành. Đối với tôi một cuốn tiểu thuyết dường như chỉ hoàn thành khi tôi cảm thấy rằng nếu tôi không kết thúc nó sớm, nó sẽ vượt qua khỏi tôi. Khi đã đạt đến độ bão hoà, khi tôi thấy đã đủ, khi tôi không còn chịu đựng được nữa, thì câu chuyện kết thúc... [Bản dịch của Phan Quỳnh Trâm, với sự hiệu đính và chú thích của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
[NOBEL VĂN CHƯƠNG 2010] ... Lúc đầu có điều gì đó rất mơ hồ, một trạng thái cảnh giác, một điềm báo, một điều gây thắc mắc. Một cái gì đó tôi nhận ra trong cõi mù mịt và chập chờn quanh tôi khiến tôi chú ý, tò mò, và phấn khích, và rồi tự nó biến thành công việc, những thẻ ghi chú, bản tóm tắt cốt truyện. Rồi đến khi tôi có cái sườn truyện và bắt đầu sắp đặt mọi sự việc theo trật tự, thì một điều gì đó rất tản mạn, rất mơ hồ vẫn còn lởn vởn. Giây phút “bừng sáng” chỉ xảy ra trong khi làm việc... [Bản dịch của Phan Quỳnh Trâm, với sự hiệu đính và chú thích của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
[NOBEL VĂN CHƯƠNG 2010] ... Một số người xem văn chương như là một sinh hoạt bổ sung hoặc trang trí cho một cuộc đời vốn dành để theo đuổi những thứ khác hay thậm chí như một cách để đạt được thanh thế và quyền lực. Trong những trường hợp đó, có một sự tắc nghẽn, đó chính là văn chương đang trả thù chính nó, nó không cho phép bạn viết với một chút tự do, táo bạo hay độc đáo nào cả. Đó là lý do tại sao tôi nghĩ rằng việc dấn thân hoàn toàn vào văn chương là điều rất quan trọng... [Bản dịch của Phan Quỳnh Trâm, với sự hiệu đính và chú thích của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021