thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Đinh Từ Bích Thúy: Những suy nghĩ về ngày 30/4

 

Bài phỏng vấn dưới đây do nhà thơ Nguyễn Thị Thanh Bình thực hiện. Một bản câu hỏi đã được gửi đến nhiều văn nghệ sĩ trong và ngoài nước. Tiền Vệ sẽ lần lượt đăng tải loạt bài này.
 
Tiền Vệ

 

_______

 

ĐINH TỪ BÍCH THÚY: NHỮNG SUY NGHĨ VỀ NGÀY 30/4

 

Nguyễn Thị Thanh Bình: Tôi cố tình dành một khoảng trống cho tên gọi ngày 30-4. Bạn là một cây viết cừ khôi, xin bạn thử tìm một tên gọi khác cho ngày này, ngoài những chữ vẫn được gọi kêu thông thường như ngày Quốc Hận, Tháng Tư Đen, ngày Giải Phóng hay ngày Đại Thắng Mùa Xuân...? Và tại sao bạn lại muốn gọi như thế?

Đinh Từ Bích Thúy: Thưa chị, Thúy mới thực sự viết văn trong tiếng Việt từ năm 2005 (Thúy viết hầu hết trong tiếng Anh từ năm 1991, vì lúc đó thấy mình “thoải mái” hơn khi diễn tả trong tiếng Anh), và do đó không dám nhận mình là một “cây viết cừ khôi.” Ngôn ngữ Việt Nam và ngôn ngữ Anh luôn luôn là hai cái bẫy sinh đôi đầy nguy hiểm cho một người bị giằng co giữa hai văn hóa. Ngày 30 tháng Tư năm 1975 đánh dấu biến cố ... phân tâm, mà người Mỹ gọi là schizophrenia. Đối với một con bé 13 tuổi, đó là ngày mà nó đã bị chẻ đôi thành hai con người. Đó là ngày Thúy bị bật ra khỏi “cốt truyện Việt Nam.”

Nhà văn Kundera đã nói về hiện tượng này trong tác phẩm Vô Tri, khi khái niệm “nhà” trở thành một khái niệm lung lay, chủ quan, vì danh từ “nhà” đối với một người lưu vong đã mất đi ý nghĩa tưởng là bất di bất dịch của nó. Đó cũng là ngày mà Thúy đã trở thành một người lạ, từ cái nhìn của người trong nước, cũng như đối với chính bản thân mình. Đó là ngày mà Thúy bị bắt buộc phải tiếp nhận một khuynh hướng khác, một cuộc đời khác. Đó là một ngày mà Thúy, cũng như các bạn đồng lứa của Thúy, phải đánh đổi/trả giá –trong một cuộc thương lượng mang tính cách Faustian: chuyến đi ra khỏi Việt Nam là một cách mở đường, khai phóng cho tương lai, nhưng để có tương lai (mới) Thúy phải mất đi quá khứ, lịch sử, và ngay cả một tương lai thuần túy là người Việt Nam. Hậu quả của sự đánh đổi này là ... luyện ngục. Luyện ngục (limbo) không/chưa phải là địa ngục, nhưng sự phân tâm, bị giằng co sẽ kéo dài cho đến ngày nhắm mắt. Nói cách khác, nó gần giống như sự dùng dằng về tâm lý của Hamlet, nó làm cho người trẻ bị mất tuổi trẻ, và nó cũng tạo ra những nỗi bất an và nổi loạn (ngầm) dai dẳng.

 

Nguyễn Thị Thanh Bình: Nhà thơ Nguyễn Duy ở Việt Nam, với bài thơ “Nhìn từ xa... Tổ quốc” mà nhiều người vẫn tâm đắc, đã có lần viết câu thơ sau đây trong bài “Đá ơi”: “Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh / Phe nào thắng thì nhân dân đều bại”. Không biết bạn đồng cảm như thế nào với thi sĩ về hai câu này, cũng như liệu bạn có thể cảm tác thêm một vài câu “lấy liền” cho dòng thơ tháng 4 không?

Đinh Từ Bích Thúy: Trong “Đá Ơi” (Nguyễn Duy sáng tác vào năm 1989 – 11 năm sau khi Việt Nam xâm chiếm và giải phóng Campuchia) “nhân dân” bị coi như một thành phần thụ động, mơ hồ và trừu tượng, không liên hệ hay dính dáng gì với “phe nào thắng.” Chừng nào nhân dân vẫn còn bị tách rời ra khỏi lực lượng cầm quyền, vẫn chưa có những tự do chính trị, ngôn luận, vẫn chưa có những cơ hội tham gia vào những sinh hoạt dân chủ, thì đúng như nhà thơ Nguyễn Duy đã nói, “nhân dân” vẫn còn trong thế bại. Nhưng ngược lại, theo cách suy nghĩ thông thường của mọi thành viên trong một xã hội tự do, nếu “phe thắng” đương nhiên đồng nghĩa với “nhân dân” –thì ta sẽ có một cuộc cách mạng tương đương như cuộc cách mạng “nhung” của Tiệp Khắc khởi xướng vào cuối năm 1989 bởi Vaclav Havel, hoặc gần đây hơn, là những cuộc nổi dậy ở Trung Đông trong năm 2011 vừa qua. Ngay cả điều Obama được đắc cử làm vị Tổng Thống da đen đầu tiên của Hoa kỳ cũng là một chiến thắng cho người dân Mỹ vốn đã trải qua cuộc Nội Chiến Nam Bắc từ vấn nạn nô lệ. Điều cốt yếu là sự thay đổi phải được người dân chủ động và ý thức. Nếu có sự chủ động, ý thức, và tinh thần đoàn kết, thì dân trong vị thế này đã thắng. Do đó, trong những xã hội độc quyền, điển hình nhất là biến cố Thiên An Môn cũng vào năm 1989, chính quyền đã dùng bạo lực quân sự để chế ngự tiếng nói của người dân. Nhưng cuộc nổi dậy ở Lybia và Tunisia là hai trường hợp mà quân đội cũng theo dân nối kết thành “phe thắng” để lật đổ nền lãnh đạo độc tài.

Thúy không hiểu những người vẫn tâm đắc với bài thơ “Nhìn từ xa ...tổ quốc” của Nguyễn Duy đã đọc hết bài thơ này chưa? “Nhìn từ xa ...tổ quốc” là một bài thơ “tự vấn/kiểm điểm (lấy lệ)” vì nhà thơ không chính thức đổ tội hay lên án ai cả. Thật vậy, trong suốt bài thơ, nhà thơ chỉ chất vấn mơ hồ là “ai/không ai” đã làm cho nước Việt nghèo đói, tạo ra bao nhiêu thứ điếm, v.v... Nếu “ai/không ai” đây là cách nói ám chỉ cả dân cũng như guồng máy lãnh đạo Việt Nam, thì cách nói này vẫn là cách nói che đậy, bóng gió cho những bè lũ đáng phải bị lên án thẳng thừng, và hoàn toàn không công bình cho người dân – là những nạn nhân của chính sách vị kỷ và thiếu sáng suốt. Nếu “ai/không ai” trong bài thơ ám chỉ “người hùng bất lực bóng máu bầm đen sõng soài nền nhà” Hồ Chí Minh thì vẫn chỉ là một sự chỉ trích hình thức không hề hấn gì đến những lãnh đạo đương thời.

Ở cuối bài thơ, Nguyễn Duy kết luận “Còn thơ còn dân/ ta là dân – vậy thì ta tồn tại” đại khái theo kiểu Cogito ergo sum của Descartes. Thúy không nghĩ vấn đề lại suông đuột như thế. Phải đặt câu hỏi, “thơ” này là thơ của ai, xuất bản bởi ai, có bị kiểm duyệt hay không? Thơ lơ mơ, thơ hờ hững, thơ nửa kín nửa hở, thơ con cóc, thơ nhại biếm, những loại thơ bị cấm xuất bản, thơ nào là thơ sẽ “tồn tại” cùng dân, hay “thơ” thì đi đường thơ, còn dân thì mặc kệ dân? “Tồn tại” là thế nào, và bao lâu? (Đến đây – tuy hơi lạc đề - nhưng làm Thúy nghĩ đến câu nói của Phạm Quỳnh, “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà lo ....” Nhưng có lẽ khi nói câu này Phạm Quỳnh đã không ngờ rằng sự tồn tại của Kiều trong ngày hôm nay cũng có phần phức tạp vì Kiều đã vượt biên. (Thật ra, ngay trong tác phẩm Kiều và Nguyễn Du cũng đã vượt biên. Nguyễn Du vượt biên giới tính, Kiều vượt biên lễ giáo). Thế nào là “còn” khi Kiều đã được phiên dịch ra nhiều bản ngoại ngữ, và được tiếp nhận bởi các sinh viên, học sinh gốc Việt lớn lên trong môi trường Tây Âu? Khái niệm tồn tại có đồng nghĩa với thuyết tiến hóa, tinh thần đáp ứng dựa trên sự sáng tạo (hoặc sáng suốt), hay “tồn tại” phải là chuyện bảo vệ “trinh tiết” kiểu “nước vỏ lựu máu mào gà” của mọi lề thói, hiện trạng, trong thực tại cũng chỉ là di sản của lịch sử bị đô hộ?

Thúy không phải là nhà thơ, nên không có khả năng làm thơ “lấy liền” cho đề tài 30 tháng 4. Biến cố 30-4 đã tạo ra nhiều kẻ hoài nghi ngôn ngữ. Thúy là một trong những kẻ ngờ vực, mất đức tin, chỉ biết hoài nghi và do đó chưa “xuất thần” để có thể thực sự sáng tác.

 

Nguyễn Thị Thanh Bình: Cứ mỗi 365 ngày, vào thời điểm này, chúng ta lại có dịp nghe thấy hoặc chứng kiến “người anh em” trong nước tưng bừng giăng thêm khẩu hiệu, biểu ngữ, và cờ phướn tung bay ngập lối, cùng pháo hoa kèn trống diễn binh... như một thứ men say chiến thắng, trong khi đó ở hải ngoại thì những người lữ thứ kỷ niệm ngày 30/4 như một tưởng nhớ đau thương quốc hận. Như thế liệu tâm hồn bạn lúc này đang bay bổng ở đâu, khi gõ lại từng đường dây biến cố lịch sử mỏi mòn ấy? Bạn có nhớ tại sao lúc ấy bạn quyết định ở lại hay ra đi không?

Đinh Từ Bích Thúy: Khi mặc niệm về ngày 30 tháng 4, trong lúc này, gần bốn thập niên sau biến cố, Thúy thấy cái nhìn của mình không chỉ giới hạn trong khuôn khổ Việt Nam. Nó đã được hoàn cầu hóa, một phần vì những biến chuyển thế giới gần đây, như cuộc cách mạng ở Tunisia, Ai Cập, Lybia, Syria, và chuyện đang sôi động hiện nay là việc Trần Quang Thành (Chen Guangcheng) một nhà tranh đấu khiếm thị đã dám vượt trốn ra khỏi nhà vào sứ quán Mỹ tá túc trước khi được chuyển đến nhà thương điều trị cho vết thương chân, và hiện nay đang chờ đợi thủ tục lấy visa để sang Hoa kỳ du học.

Khái niệm “cách mạng”- như một cuộc đổi đời, một thử nghiệm dân chủ - theo đúng nghĩa vẫn là một hứa hẹn đẹp, một lý tưởng chưa bị hủy diệt cho dù thực tại của ngày hôm sau có những khó khăn, xung đột, nếu người ta đã dám rời hang tối của Plato để nhìn thẳng vào ánh sáng mặt trời. (Sự khiếm thị của Trần Quang Thành, như nỗi Ám thị của Phạm thị Hoài, như hang tối của Plato, như Thiên Đường Mù của Dương Thu Hương, những thế giới mù của Đinh Linh đã trở nên một ẩn dụ khá bao quát và thú vị). Mong rằng những người dân Việt ở Việt Nam đã và sẽ được hứng khởi, bừng mắt bởi những cuộc nổi dậy ở Trung Đông, cũng như những hành động dũng cảm của các nhà đối lập như Lưu Hiểu Ba, Lưu Hà, Ngải Vị Vị, Trần Quang Thành, v.v..., và tin vào khả năng tác động sự chuyển hóa của chính họ.

Ngày rời Việt Nam của gia đình Thúy là ngày 21 tháng 4, nếu Thúy nhớ không lầm là trong thời điểm tuần Phục Sinh. Ở lứa tuổi 13, ra đi là một cuộc phiêu lưu mới. Những dằn vặt, bất an là những điều về sau, những giá đương nhiên phải trả cho cuộc đời tự do, cho những cơ hội giáo dục, nghề nghiệp. Dù sao, những cô cậu ra đi ở lứa tuổi 13 vào năm 1975 đã lập gia đình và có con cái là công dân Mỹ. Họ không phải là “lữ thứ” mà là một phần của xã hội Mỹ, cho nên khái niệm “quốc hận” có lẽ cũng không còn chính xác.

Trong lúc này, Thúy mong cho Trần Quang Thành- người trốn ra khỏi nhà vào ngày 21 tháng 4 năm 2012, được mau mau ra khỏi Trung Quốc, để ông và gia đình có cơ hội được sinh sống, trao đổi ngôn luận/kiến thức trong một môi trường tự do - nơi những quyền sơ đẳng của ông và người thân được tôn trọng như điều nghiễm nhiên.

 

Nguyễn Thị Thanh Bình: Vào những lúc cuối đời, thường thì trong lòng người ta vẫn dấy lên một chút lương tri đạo đức làm người gì đó, và những câu nói sau đây của ông Võ Văn Kiệt được xem như là những điển hình đáng ghi nhận: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”. Là một người dân Việt, mà lại là một người cầm bút tử tế, bạn nghĩ chúng ta phải làm thế nào để có thể băng bó vết thương chung của dân tộc, khi hiểm họa của người phương Bắc càng ngày càng phủ chụp đất nước sau 37 năm Việt Nam vỗ ngực xưng hoà bình thống nhất?

Đinh Từ Bích Thúy: Là một người viết, Việt hay không Việt, Thúy nghĩ trách nhiệm chính là viết lên những sự thật từ mọi quan sát và trải nghiệm, từ cấu trúc nghệ thuật, trong tinh thần luôn luôn chất vấn, luôn luôn thách đố, luôn luôn phân tích, luôn luôn cảnh giác. (Không hiểu sao quá trình viết thường làm Thúy nghĩ đến hình ảnh các tu sĩ Công Giáo thời Trung Cổ đã “tự quất roi” lên thân thể như một cách đền tội). Nghệ thuật, cũng như chính trị, phải dựa trên cơ cấu. Trị bệnh, làm vết thương lành sẹo, không đồng nghĩa với kiểu “hòa giải/biện hộ” nửa trơ tráo, nửa huyễn hoặc như một “triết gia” Việt kiều thường vẫn rêu rao.

Cách đây đúng một năm trước, vào khoảng thời điểm tuần lễ 30 tháng 4, đầu tháng 5 năm 2011, Bùi Chát và nhà xuất bản Giấy Vụn đã được Hiệp Hội Các Nhà Xuất Bản Quốc Tế (International Publishers Association) tôn vinh ở Buenos Aires qua những sinh hoạt xuất bản đầy can đảm và sáng tạo. Sự kiện này đã nâng cao tinh thần các người viết trong nước và ngoài nước, và cho ta thấy rằng khi một cây đổ trong rừng, sẽ vẫn có người nghe rõ tiếng vang động của cây.

 

Nguyễn Thị Thanh Bình: Nếu bảo “thất bại trong hoà bình” mới là điều đáng lên tiếng luận bàn cho một lộ trình tương lai đất nước khả quan hơn, thì thử hỏi bạn có dám nói, dám viết, dám kiến nghị để lương tâm và chức năng của một người cầm bút không bị kiến cắn, kiến bò không? Và cho dẫu bạn không hề là một trong 75 vạn người mẹ đớn đau của những người con được phong tước anh hùng liệt sĩ gì đó, hoặc bị xem là “có nợ máu với nhân dân”, thì liệu bạn có phải bịt tai, bịt mắt để khỏi phải nghe hay thấy những bài ca rỗng tuếch nhai đi nhai lại ngợi ca xương máu chiến thắng?

Đinh Từ Bích Thúy: Câu hỏi này làm Thúy nghĩ đến tác phẩm Trại Súc Vật của George Orwell, trong đó có câu, “Mọi súc vật đều bình đẳng, nhưng có những loài vật bình đẳng hơn.” Thiển nghĩ, sự bất định của ngôn ngữ chính là yếu tố đòi hỏi sự tự cảnh giác và chân thật từ một người viết, cũng như từ một nhà lãnh đạo.

Điều khác biệt giữa “chân thật” và “tuyên truyền” được thể hiện qua cách trình bày một luận đề (hay một vấn nạn). Người nghệ sĩ, cũng như người lãnh đạo, nếu kính trọng độc giả, dân tình, sẽ cân nhắc vấn đề, nhìn nhận mọi cảnh đời, mọi số phận qua những quan sát sống động, thay vì áp đặt một khuynh hướng độc nhất mà không mổ xẻ, phân tích cặn kẽ những xung đột. Sự độc tài, cũng như mọi nỗ lực bôi xóa hay sửa sắc đẹp quá khứ là điều phản thiên nhiên, và chính ra là một thất bại tuyệt đối (không phải là “thất bại trong hòa bình”) vì nó không biết dung hòa hay đáp ứng những yếu tố lịch sử qua những giải pháp sáng tạo. Để không bị mê hoặc bởi những lập luận, tuyên truyền, một người viết phải duy trì vị thế độc lập, và luôn luôn phải cân nhắc, nhìn nhận những cảm tính của mình trước những biến cố thời cuộc. Ở một khía cạnh nào đó, có lẽ văn chương “chân thực” hơn chính trị hoặc đời sống chăng, vì văn chương dám đối diện trực tiếp với thảm kịch, ngược lại, trong môi trường chính trị, hoặc trong đời sống, người ta không dám nhìn thẳng vào sự thật, vì cái giá phải trả của “sự thật” bị coi là quá đắt? Thí dụ, trong tiểu thuyết Chiến Tranh và Hòa Bình của Tolstoy, lịch sử/chiến tranh là guồng máy to tát, là sự hỗn loạn vượt ra ngoài tầm hiểu biết của loài người. Trong thế giới tiểu thuyết mà tác giả là một Tạo Hóa thông biết mọi sự nhưng giữ thế trung dung, con người luôn luôn bị chi phối giữa may rủi của vận mệnh và ước nguyện về quân bình và hạnh phúc. Không hề có vĩ nhân trong Chiến Tranh và Hòa Bình. Andrei, cao thượng, u uất và lãng mạn, nhưng suốt đời bị đè nén bởi trách nhiệm và những kỳ thị giai cấp, có lẽ là nhân vật bi thảm nhất trong Chiến Tranh và Hòa Bình. Andrei vẫn chết cho dù chàng nhận thức được chân lý của vũ trụ. Một chế độ độc tài, ngược lại, nghĩ rằng nó có thể tồn tại qua fiction của thuyết anh hùng bất khả ngộ.

 

Nguyễn Thị Thanh Bình: Ông Lê Duẩn đã từng biện bạch rằng “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải là của riêng ai”. Vậy thử hỏi nỗi đau của “triệu người buồn” kia, cũng hệt như nỗi đau của nước sắp mất, và (ngôi) nhà Việt Nam sắp tan, không lẽ không phải là niềm đau chung của dân tộc? Đất nước chắc chắn nào phải của riêng ai, vậy tại sao lại chỉ có thứ độc quyền yêu nước hay bán nước? Sự kiện tiếp tục bỏ tù những trí thức yêu nước độc lập có phải là thái độ sợ hãi của một nhà cầm quyền chỉ muốn củng cố quyền lực hay không? Liệu bạn có thấy phấn khởi khi giới trẻ cũng bắt đầu quan tâm và muốn gánh vác phần nào câu chuyện lịch sử 30/4/1975 của cha ông mình?

Đinh Từ Bích Thúy: Từ năm 1975, Thúy chưa hề trở về Việt Nam lần nào nên không đủ thẩm quyền để góp ý về mọi thành phần giới trẻ hiện sinh sống tại Việt Nam. Tuy vậy, câu hỏi làm Thúy nhớ đến lời nhận xét của cậu em trai, trước đây đã làm việc nhiều năm ở Singapore. Tuy Singapore là một xứ sở rất tôn trọng kỷ luật, với nền kinh tế mạnh, và không có những bất an về mặt chính trị, cậu em của Thúy đã phàn nàn rằng, “chính phủ Singapore coi dân của họ như trẻ con. Người dân Singapore không có tinh thần tự túc.” Thúy đã suy nghĩ nhiều về lời nhận xét này. Có lẽ nền giáo dục của Hoa kỳ đã giúp cho Thúy thấy tầm quan trọng của phản ứng cá nhân – một thể hiện của tinh thần chính trị từ gốc rễ (grassroots politics). Vì ở Hoa kỳ người ta có câu, điều cá nhân cũng là điều chính trị, để thực sự có thay đổi, một cá nhân phải nhận thấy rằng mọi vinh hạnh và vấn nạn của xứ sở đều sẽ ảnh hưởng trước tiên đến chính bản thân, gia đình họ. Như vậy ta không thể chấp nhận lời biện bạch của Lê Duẩn. Sự thắng lợi của cả dân tộc, để có ý nghĩa, cũng phải là sự thắng lợi của từng cá nhân có ý thức, của riêng từng người. Từ lúc bé, khi học về Hai Bà Trưng, Thúy vẫn thắc mắc không hiểu Trưng Trắc đã chỉ quyết định hành động sau khi chồng bà bị giết, hay nỗi hận của vị anh thư đã phát xuất từ một chuyện hàng ngày rất nhỏ trước đó, nhưng là hậu quả trực tiếp của chính sách đô hộ? Văn chương cũng đã giúp cho Thúy thấy khía cạnh cá nhân của chính trị: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Mộng Giác và Trần Vũ trước đây đã dùng fiction để “vẽ lại” những nhân vật lớn trong lịch sử Việt Nam. Chúng ta luôn luôn cần những cá nhân có óc sáng tạo để thách thức hoặc đánh đổ hiện trạng. Về mặt văn chương, qua kinh nghiệm làm việc trong ban biên tập Da Màu từ sáu năm qua, Thúy nhận thấy các nhà văn trẻ trong nước - ngoài một số rất ít –thì vẫn chưa có môi trường khả quan để phát triển sự sáng tạo, hoặc một thái độ ngạo nghễ, vững chãi, độc lập. Biết đến bao giờ Việt Nam mới có một Roberto Bolano? Đây cũng là một “thất bại trong hòa bình” coi bộ vô phương của chính quyền Việt Nam.

 

 

-------------

Đã đăng:

08.05.2012
Nguyễn Hưng Quốc: ... Bi kịch của cá nhân thì nên quên. Nhớ, không ai chịu đựng nổi. Nhưng bi kịch của cả dân tộc thì phải nhớ. Quên, người ta đánh mất cơ hội để trở thành giàu có, sâu sắc. Và nhất là, trưởng thành. Với cá nhân, nước mắt là đá, nặng trĩu, kéo oằn người ta xuống; với dân tộc, nước mắt là ngọc trai, trong giếng Mỵ Châu, tỏa sáng, lấp lánh, làm người ta đẹp hơn. Và cũng cao hơn... (...)
 
07.05.2012
Chân Phương: ... Tôi hình dung đó là một bầy khủng long bằng sắt thép đêm ngày dò dẫm khắp rừng núi Trường Sơn tiến về phương Nam; nhưng khi chiếm được Sài Gòn thì nhanh chóng diễn ra tuồng kịch bi-hài của bọn khủng long chỉ có bộ óc không to hơn bát gạo bao nhiêu!... (...)
 
06.05.2012
Trần Trung Đạo: ... Tôi có một niềm tin sâu xa vào tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam. Giá trị của một con người không phải được thẩm định khi người đó bị xô ngã nhưng ở chỗ biết đứng lên và đi tới. Dân tộc Việt Nam cũng thế, đã bị xô ngã trong ngày 30-4-1975 nhưng đang đứng lên và đi tới... (...)
 
05.05.2012
Nhã Thuyên: ... Những bài học lịch sử ở trường phổ thông về “ngày giải phóng”, “chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử”,... cũng như rất rất nhiều những kiến thức, nhiều quan niệm, nhiều “giá trị” tôi chỉ còn nhìn như những cụm từ rỗng nghĩa (nhưng không vô nghĩa). Tôi quan tâm đọc những gì mọi người viết về ngày này như một quan tâm về lịch sử-sống, những người có kí ức về nó đang kể lại, những tâm sự của những người chứng, là bên này hay bên kia, của bè bạn phương xa, của kẻ lạ, hay tôi quan sát, hỏi han, lắng nghe từ những người bình thường như chú xe ôm, bà hàng nước... (...)
 
04.05.2012
Phùng Nguyễn: ... Có những cái loa sẽ không bao giờ ngưng nghỉ việc phát ra tiếng ồn, đặc biệt những vu khống nhằm bôi đen đối phương của mình. Những tuyên truyền láo khoét mà tôi gọi là “nọc độc văn hóa” này lâu ngày sẽ trở thành những thực tế lịch sử không thể đảo ngược. Tôi cho rằng những vết nhơ văn hóa/lịch sử này cần phải được lật tẩy và xóa bỏ... (...)
 
03.05.2012
Hoàng Chính: ... Hiểm họa Hán hóa của những năm Bắc thuộc đã tỏ tường. Và người ta cũng chẳng bận tâm che giấu. Tôi đang nhìn thấy những ngày xuống biển mò ngọc trai, lên rừng săn voi lấy ngà, gom góp vàng bạc đúc tượng những ông Khổng, ông Trang, ông Mao, ông vân vân và vân vân... gửi về phương Bắc... (...)
 
Hồ Đình Nghiêm: ... Tháng 4, để mình lục soạn trí nhớ thử, từ cái cớ đau thương nọ hình như chưa có bài thơ nào gây ra xúc động? Mình luôn mang nỗi hoài nghi: Khi bạn chạm mặt buồn đau, tang thương nghiệt ngã, chắc bạn sẽ thấy bất lực khi muốn dùng chữ viết để bạch hóa nó ra. 37 năm qua, mình chưa đọc phải một cái gì nhức nhối về “cải tạo” về “vượt biển” về “lưu vong”... (...)
 
02.05.2012
Nguyễn Ngọc Bích: ... Đất nước chỉ còn có một hy-vọng độc-nhất, đó là đặt lên vai những tuổi trẻ hôm nay, những tuổi trẻ như Việt Khang, Huỳnh Thục Vy, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Lê Quốc Quân... và nhiều người còn trẻ hơn thế nữa! Họ là những con người trong sáng, không bị gánh nặng của quá-khứ đè trĩu trên vai, và đã từ lâu họ nhìn ra không còn Quốc-Cộng ở trong hàng ngũ họ nữa, chỉ còn “nghĩa đồng-bào” con Hồng cháu Lạc, con Rồng cháu Tiên!... (...)
 
Trần Mộng Tú: Ba mươi bảy năm rồi, người ta nói là Việt Nam đã hết chiến tranh, người dân đã có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhưng trên mạng, người Việt trong và ngoài nước vẫn có những dòng chữ gửi đến cho nhau mang theo những thông điệp thật buồn: Việt Nam tôi đâu? Người dân mất nhà, mất đất. Gái Việt bán sang Đài Loan. Gái Việt xếp hàng lấy chồng Đại Hàn. Không có Tự Do cho Việt Nam. Ngư dân Việt bị tầu Trung Quốc bắt ngay trên biển của mình. Nước Việt âm thầm mất dần từng mảnh cho Trung Quốc... (...)
 
01.05.2012
Nguyễn Tôn Hiệt: ... Tôi nghĩ, để “băng bó vết thương chung của dân tộc” thì, trước hết, ta không nên nhầm lẫn nó với những chiêu bài “hoà giải hoà hợp” giả hiệu. Không thể “băng bó vết thương chung của dân tộc” bằng cách tự đánh thuốc mê, tự chích thuốc tê, tự tẩy trắng mọi ký ức đau thương, khi vết thương thật sự vẫn còn nguyên trong tâm hồn và trên thể xác của biết bao người. Không thể “băng bó vết thương chung của dân tộc” khi những kẻ gây ra vết thương ấy không hề biết nhận lỗi, không hề biết sửa đổi, mà cứ tiếp tục dối trá, cứ tiếp tục tạo ra những tội ác mới, những sai lầm mới, cứ tiếp tục ca múa, giăng cờ, cụng ly trên chính vết thương ấy... (...)
 
30.04.2012
Bắc Phong: Tôi vẫn muốn gọi ngày 30 tháng 4 là ngày Quốc Hận vì tôi là công dân của nước Việt Nam Cộng Hoà bị mất vào tay Cộng Sản ngày đó năm 1975. Tôi buồn nhiều vì, giống số phận đau thương của nhân dân miền Bắc, nhân dân miền Nam cũng phải sống khổ dưới sự thống trị của Đảng Cộng Sản từ đó đến nay và chưa biết còn đến bao giờ nữa... (...)
 
Uyên Thao: ... Thời điểm đó, tôi đã nói với bạn bè là tôi thấy cuộc chiến không hề chấm dứt mà chỉ chuyển sang một đoạn đường mới kể từ ngày nào Sài Gòn rơi vào tay Cộng Sản. Trong nhận thức của tôi, cuộc chiến đang diễn ra dù gọi tên là gì, dù được giải thích ra sao thì thực chất chỉ là cuộc chiến do yêu cầu bảo tồn sự sống của người Việt trước nguy cơ huỷ hoại sự sống của một tập đoàn mê muội cuồng dại mà thôi... (...)
 
29.04.2012
Liêu Thái: ... Cứ mỗi dịp tháng Tư về, vườn nhà tôi thi thoảng nghe chó sủa đêm rồi lại tru, mẹ tôi bảo đó là chó sủa ma. Và mẹ tôi cũng nói rằng còn quá nhiều oan hồn uẩn tử, âm khí quá nặng, nên tháng Tư về, song hành với tiếng reo hò chiến thắng là tiếng chó tru đêm đầy rẫy trên quê hương. Và, đâu đó trong góc khuất cuộc đời, những oan hồn đang thở dài nhìn hiện tình đất nước, nhìn những người bạn năm nào giờ đang lưu lạc… Cứ như thế, đất nước vật vờ trong nhịp buồn tháng Tư – tháng Oan Hồn... (...)
 
28.04.2012
Nguyễn Viện: ... Tôi vừa đọc lại cuốn Chuông gọi hồn ai của Hemingway, cũng là cuốn sách viết về cuộc nội chiến Tây Ban Nha, và tôi nhớ có đoạn Hemingway để cho nhân vật của mình nói, đại ý: Cần phải có một cuộc giải tội tập thể cho cả dân tộc, bất kể anh ở phe nào. Vâng, tôi ước ao có một ngày mọi người dân Việt dù đang sống ở bất cứ đâu, cùng dành ra một giờ để xưng tội với nhau và xin tha thứ cho nhau. Cho cả những người đã chết, đang sống và sẽ sinh ra làm người Việt... (...)
 
Cảm tưởng về ngày 30/4  (tiểu luận / nhận định) - Nguyễn Thị Thanh Bình
... 37 năm nhìn lại với tôi là một chặng đường tuột dốc thê thảm: tước đoạt của mọi tước đoạt, tham tàn trên cả tham tàn, lừa mỵ phản trắc không diễn tả nổi. Những chiếc bánh vẽ to tướng mà đến cuối đời nhà thơ Chế Lan Viên mới tuồng như thấu hiểu, thì người ta vẫn thay phiên nhau tọng vô họng nhân dân... (...)

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021