thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Cái chết của ông bố
Bản dịch của Thận Nhiên

 

CHARLES BUKOWSKI (1920-1994)

 

CÁI CHẾT CỦA ÔNG BỐ

 

Mẹ tôi đã qua đời trong năm trước. Một tuần sau khi bố mất tôi đứng một mình trong ngôi nhà của ông. Nó ở Arcadia, và lần gần nhất mà tôi đến ngôi nhà này sau một thời gian khá lâu là lần tôi từ xa lộ ghé ngang vào đây khi đang trên đường đến Santa Anita.

Chẳng có ai trong xóm biết tôi. Tang lễ đã xong, và tôi bước tới chậu rửa chén, lấy một ly nước, uống, rồi bước ra bên ngoài. Chẳng biết phải làm gì, tôi nhặt cái vòi tưới, mở nước và bắt đầu tưới đám cây. Những tấm màn được kéo lại khi tôi đứng ở sân trước. Rồi người ta ra khỏi nhà. Một mợ từ bên kia đường bước tới.

“Anh là Henry?” mợ hỏi.

Tôi đáp mình là Henry.

“Chúng tôi quen bố anh đã lâu.”

Rồi chồng của mợ đi qua. “Chúng tôi cũng biết mẹ của anh nữa,” ông nói.

Tôi cúi xuống tắt vòi tưới. “Mời ông bà vào chơi,” tôi nói.

Họ giới thiệu là Tom và Nellie Miller rồi chúng tôi vào nhà.

“Anh giống bố anh lắm.”

“Vâng, người ta thường nói vậy.”

Chúng tôi ngồi và ngó nhau.

“Ô,” mợ nói, “ông ấy có nhiều tranh quá. Hẳn ông ấy thích tranh lắm.”

“Vâng, ông ấy thích tranh lắm.”

“Tôi thích cái bức cối xay gió trong ánh hoàng hôn ghê.”

“Bà lấy đi.”

“Ô, tôi lấy được à?”

Chuông cửa vang lên. Đó là gia đình Gibsons. Gia đình Gibsons bảo tôi rằng họ cũng là hàng xóm của cha tôi cả nhiều năm rồi.

“Anh trông giống cha anh lắm,” bà Gibsons nói.

“Henry đã tặng chúng tôi bức tranh cối xay gió.”

“Hay quá. Tôi yêu bức con ngựa xanh kia lắm.”

“Bà có thể lấy nó, thưa bà Gibsons.”

“Ô, anh nói thật đấy chứ?”

“Vâng, chẳng có gì đâu.”

Chuông cửa lại vang lên và một đôi khác bước vào. Tôi để hé cửa sẵn. Chẳng mấy chốc một ông đi một mình thò đầu vào. “Tôi là Dong Hudson. Vợ tôi ở tiệm làm tóc.”

“Mời vào, ông Hudson.”

Những người khác đến, hầu hết từng đôi. Họ bắt đầu rảo lòng vòng khắp nhà.

“Anh có bán nhà này không?”

“Tôi nghĩ là tôi sẽ bán.”

“Xóm này rất dễ thương.”

“Tôi thấy vậy,”

“Ồ, tôi chỉ thích cái khung này nhưng không thích bức tranh.”

“Lấy cái khung đi.”

“Nhưng rồi tôi làm gì với bức tranh đây?”

“Bỏ thùng rác.” Tôi ngó quanh. “Nếu ai thích tranh ảnh nào thì xin cứ lấy nhé.”

Họ làm theo. Chẳng mấy chốc các bức tường trống trơn.

“Anh có cần mấy cái ghế này không?”

“Không, tôi không cần đâu.”

Những khách qua đường bước vào, và chẳng buồn giới thiệu họ là ai.

“Còn cái xô-pha thì sao?” một người cao giọng. “Anh có muốn giữ lại không?”

“Tôi không giữ đâu.” tôi đáp.

Họ khiêng cái xô-pha, rồi cái bàn ăn và những chiếc ghế.

“Anh có cái lò nướng ở đâu đó, phải không, Henry?”

Họ lấy cái lò nướng.

“Anh đâu cần những cái dĩa này, phải không?”

“Không.”

“Còn đồ muỗng nĩa?”

“Không.”

“Còn bình pha cà-phê và máy xay thì sao?”

“Lấy luôn đi.”

Một bà mở cái tủ thức ăn ở sau bếp. “Còn các thứ trái cây khô thì sao? Anh chẳng bao giờ ăn hết các món này.”

“Được rồi, nè mọi người, mỗi người lấy một ít. Nhưng chia nhau cho đều nghen.”

“Ồ, tôi muốn dâu tây!”

“Ô, tôi thích trái sung!”

“Ô, tôi thích mứt cam!”

Người ta cứ bỏ đi rồi trở lại, mang theo những người mới.

“Nè, có một bình Whiskey trong tủ! Anh có nhậu không, Henry?”

“Để bình Whiskey lại.”

Ngôi nhà càng lúc càng đông. Tiếng cầu tiêu xối nước. Một ai đó va cái ly vào chậu rửa chén và làm vỡ.

“Anh nên giữ lại cái máy hút bụi, Henry à. Anh có thể dùng ở căn hộ của mình.”

“Đúng rồi, tôi giữ nó lại nghen.”

“Ổng có một số đồ nghề làm vườn trong ga-ra. Đồ nghề làm vườn thì sao đây?”

“Không, tôi nên giữ chúng lại.”

“Tôi sẽ trả anh $15 cho mớ đồ nghề đó?”

“Đồng ý.”

Gã trao tôi $15 và tôi giao chìa khóa ga-ra cho gã. Ngay sau đó tôi nghe tiếng gã lái chiếc máy cắt cỏ băng qua đường để về nhà mình.

“Lẽ ra anh không nên bán cả đống đồ nghề với giá $15, Henry à. Nó đáng giá hơn nhiều lắm.”

Tôi không đáp.

“Còn chiếc xế thì sao? Ổng chạy nó đã 4 năm rồi.”

“Tôi nghĩ là tôi giữ chiếc xế lại.”

“Tôi sẽ trả anh $50?”

“Tôi không bán!”

Ai đó cuốn tấm thảm trong phòng khách. Sau đó thì mọi người hết hứng. Rồi chỉ còn ba bốn người ở lại, rồi họ cũng biến. Họ để lại cho tôi cái vòi tưới vườn, giường, tủ lạnh, và bếp, và một cuộn giấy lau đít.

Tôi bước ra ngoài đóng cửa ga-ra. Hai thằng nhóc trượt pa-tin ngang qua. Chúng dừng lại lúc tôi đang khóa cửa.

“Thấy thằng cha đó không mầy?”

“Thấy.”

“Bố thằng chả mới ngủm.”

Chúng chạy tiếp. Tôi nhặt vòi tưới lên, mở khóa nước, rồi tưới mấy khóm hồng.

 

 

--------------
Bản dịch của Thận Nhiên từ nguyên tác “The Death of the Father” trong Charles Bukowski, Run With The Hunted (New York: HarperCollins Publishers, 2003) tr. 182-184.
_______
Bấm vào đây để đọc thơ và truyện của Charles Bukowski qua những bản dịch Việt ngữ đã đăng trên Tiền Vệ.

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021