thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Trần Vàng Sao: nhà thơ mê vẽ

 

Trần Vàng Sao là một trong những trường hợp đặc biệt của văn nghệ Việt Nam hiện đại. Với giọng điệu đầy cá tính, một số tác phẩm của anh đã tạo lắm hiệu quả đáng nhớ: Bài thơ của một người yêu nước mình (1967), Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình (1984), Buổi trưa giữa đường tôi ngồi núp mưa (1990) đem lại cho tác giả niềm vinh quang lẫn nỗi hệ luỵ. Bao năm nay, dưới mái nhà ở Vỹ Dạ, cố đô Huế, Trần Vàng Sao còn say sưa vẽ tranh bằng nhiều chất liệu.

 

Chân dung Trần Vàng Sao

Ảnh: Phanxipăng

 

Tôi thỉnh thoảng về Huế, khá thú vị khi gặp Trần Vàng Sao. Nâng tách trà, chung rượu, hoặc ly bia, chúng tôi rổn rảng chuyện nọ nối chuyện kia tưởng không dứt. Đã mấy lần, Trần Vàng Sao tặng tôi tranh do anh vẽ. Bức thì đậm nhạt bút chì. Bức thì ngoằn ngoèo mực xạ. Bức lại tung tẩy bột màu.

Xin ghi lại cuộc chuyện vãn giữa Trần Vàng Sao với tôi bên bờ sông Hương mới đây.

 

* Hình như cuộc đời Trần Vàng Sao luôn gắn kết với lắm ngộ nhận, xuất phát bởi nhiều lý do. Năm anh lọt lòng là ví dụ đơn giản. Phải rứa không hè?

- Đúng. Giấy tờ ghi mình sinh ngày 12-12-1942. Nhưng thực sự thì mình chào đời năm Tân Tị 1941.

 

* Vỹ Dạ là sinh quán và trú quán của anh. Còn nguyên quán?

- Làng Đông Xuyên, thôn Quảng An, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Để nhớ nguyên quán, vợ chồng mình dùng địa danh Đông Xuyên đặt tên cho đứa con trai.

 

* Anh sáng tác thơ từ bao giờ? Anh vẽ vời hồi nào? Anh cộng tác với báo chí từ thuở sinh viên ư?

- Trẻ con nào mà không vẽ? Mình chẳng phải ngoại lệ. Sau ni, nhiều lúc trơ trọi một mình, càng hì hục vẽ. Do không qua đào tạo, nên lắm phen mình rất lúng túng khi xử lý chất liệu. Như thuở mới chơi bột màu, mình không biết hoà trộn với keo dính nên vẽ xong một thời gian ngắn, bức tranh bị bong lở tả tơi! Còn thơ, mình bắt đầu mần từ năm 1959, lúc học lớp đệ tam, bữa ni là lớp 10, trường Quốc Học. Với báo chí thì từ thời học sinh, kéo dài sang thời sinh viên, mình đã viết bài đăng tập san Lành Mạnh. Chẳng hạn loạt bài điểm sách, như điểm các tập thơ Hoa đăng của Vũ Hoàng Chương, Hoa cô độc của Ngô Kha, Chuyện của nàng của Dương Diên Nghị, v.v.

 

* Kỷ niệm của anh về thuở lên rừng rồi ra Bắc?

- Tại Huế, mình với Nguyễn Thiết, Lê Minh Trường, Nguyễn Đình Nghĩa, Lê Văn Sắc, v.v., in và rải truyền đơn chống đế quốc Mỹ xâm lược. Bị lộ, cảnh sát lùng sục, rứa thì mình phải lên xanh vào tháng 6-1965. Ở trên rừng, quá nhớ Huế, nhưng mình chẳng được về Huế, ngay cả dịp Tết Mậu Thân 1968. Chẳng may mình bị thương, lại thêm loét dạ dày, phải ra Bắc điều trị năm 1970. Hồi ký Tôi bị bắt do mình viết năm 1993 đã kể lại thời gian mình bị rơi vào hoàn cảnh quá đỗi éo le tại miền Bắc từ năm 1972 đến mãi sau này.

 

* Dẫu sao, bây giờ anh cũng có lương hưu.

- Ngày 16-8-1981, mình nghỉ công tác tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã Hương Lưu. Quyết định thôi việc của mình do ông Nguyễn Đức Hân — Phó Chủ tịch UBND thành phố Huế — ký ngày 20-5-1982. Ban đầu, mình nhận trợ cấp hằng tháng 44 đồng 9 xu. Ngày 1-7-1986, Sở Thương binh - Xã hội Bình Trị Thiên xét lại trường hợp mình, cho hưởng trợ cấp hưu trí hằng tháng 217 đồng 5 hào. Bữa ni thì mức lương hưu mình mỗi tháng 1,6 triệu đồng.

 

* Kể tí chút về bà xã Nguyễn Thị Hay cùng các con của anh được chăng?

- Hay rất… hay. Nàng người làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang. Nhà vườn của ông bà ngoại nàng hiện chừ trở thành di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh từng sống giai đoạn 1898-1900. Cha nàng lại là trung tá chế độ cũ, từng làm quận trưởng Phú Vang. Tháng 1-1976, hai đứa cưới nhau. Lúc đó, Hay học lớp Y tế xã ở trường Trung học Y tế Bình Trị Thiên. Năm 1977, đẻ con gái đầu lòng, tên thân mật là Bồ Câu, giấy tờ thì Nguyễn Cát Hiên. Đến tháng 4-1979, Hay tốt nghiệp Trung học Y tế, tháng 6-1979 đi làm ở trạm y tế phường Vĩnh Lợi, đầu năm 1980 thì nàng nghỉ, ra Vinh (Nghệ An) buôn bán nào cà phê bột, nào phân đạm, nào bút chì, nhưng lỗ nặng, bèn về Huế bán lẻ thuốc lá và bánh kẹo, rồi buôn bán trái cây, rồi gánh thuê nước đá tại chợ Đông Ba, rồi nấu bánh canh bán nhiều nơi nhằm mưu sinh qua ngày. Năm 1982, đẻ con thứ nhì, trai, tên thân mật là Bờm, giấy tờ thì Nguyễn Đông Xuyên. Nay, Bồ Câu đã có chồng với 2 con, Bờm đã có vợ với 1 con.

 

* Bút danh Trần Vàng Sao xuất hiện bao giờ? Anh sáng tác Bài thơ của một người yêu nước mình trong hoàn cảnh nào?

- Nhiều người tưởng mình ký bút danh Trần Vàng Sao lúc ở côi ngàn. Không phải mô. Mình chọn bút danh Trần Vàng Sao khi ở Huế, từ bài thơ Khởi hành. Tập san Nhận Thức đăng tác phẩm ni, nhưng ban biên tập lo ngại lộ bí mật nên giản lược Trần Vàng Sao thành Trần Sao. Tháng 6-1965, mình lên rừng. Cuối năm 1967, mình bị sốt, phải vô trạm xá chiến khu để điều trị. Lúc đó, Ban Tuyên huấn Thành ủy Huế thực hiện tập văn thơ Nổi lửa. Anh em tới trạm xá hỏi bài, mình viết ngay một mạch Bài thơ của một người yêu nước mình, kể toàn chuyện đời mình.[*] Cuối bài thơ, mình ghi rõ ngày sáng tác: 19-12-1967. Tập Nổi lửa được in ronéo theo phương pháp thủ công ở chiến khu, chỉ mấy chục bản. Không hiểu bằng cách chi mà Bài thơ của một người yêu nước mình của Trần Vàng Sao được phổ biến nhanh chóng và sâu rộng.

 

* Nhưng nói lái bút danh Trần Vàng Sao thì hiển hiện số phận anh cực kỳ nhọc nhằn gay cấn: Trào Vàng Sân!

- Bài thơ của một người yêu nước mình được văn đàn cùng bạn đọc miền Nam lẫn miền Bắc khen ngợi. Sách 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2007) đã in bài này. Rứa mà năm 1976, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế ấn hành Huế từ ấy, tập thơ chọn lọc nhiều tác giả, thì nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng nhạc sĩ Trần Hoàn muốn mình đừng ký Trần Vàng Sao mà ký Nguyễn Đính. Mình cự: “Đăng hay không là quyền anh. Đổi tên tác giả là quyền tôi. Tôi không bao giờ đổi tên Trần Vàng Sao. Nếu đăng, anh không đươc quyền đổi tên tác giả.” Lúc đó, báo Văn Nghệ Giải Phóng in lại Bài thơ của một người yêu nước mình với bút danh Trần Vàng Sao. Do đó, Trần Hoàn — lúc nớ mần Trưởng ty Văn hoá tỉnh Thừa Thiên — đồng ý giữ nguyên bút danh Trần Vàng Sao ở 2 bài thơ Nổi thêm lửa căm thùBài thơ của một người yêu nước mình trong tập Huế từ ấy. Sau, nhờ bạn bè, mình thỉnh thoảng đăng thơ trên tạp chí Sông Hương, nhưng mấy lần mắc nạn. Tháng 7-1988, Sông Hương 32, số kỷ niệm 5 năm tạp chí ra đời, đăng bức tranh mình tự hoạ và bài thơ Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình. Tháng 4-1990, Sông Hương 42 đăng 3 bài thơ của mình là Buổi trưa giữa đường tôi ngồi núp mưa, Những điều có khi hôm nay bỏ qua không nhớ, Lúc đó thế này em ơi. Ối chao ôi! Mấy sáng tác nớ bị quan chức cùng báo in, đài phát thanh và truyền hình ở địa phương xỉ vả thậm tệ, có kẻ dám lăng nhục mình là chó!

 

* Vẽ tranh thì anh lại ký Nguyễn Đính. Trong nghệ thuật tạo hình, đề tài nào khiến anh cảm thấy thú vị nhất?

- Tranh, có những bức mình chép, có những bức mình sáng tạo ít nhiều. 10 bức tranh chăn trâu do mình chép lại Thập mục ngưu đồ từ sách Thiền. Bồ Đề Đạt Ma và bài tới, thoạt tiên mình chép, dần dà mình bóc tách một số hoạ tiết rồi bố cục theo ý riêng. Cuối mỗi năm âm lịch, mình vẽ con vật chuẩn bị cầm tinh năm mới để treo chơi Tết. Năm trước, Mậu Tý 2008, con chuột. Năm ngoái, Kỷ Sửu 2009, con trâu. Năm ni, Canh Dần 2010, con cọp. Năm tới, Tân Mão 2011, con mèo. Bìa và một số trang ruột sách Tuyển tập truyện cười của Hoàng Thiếu Phủ (NXB Trẻ, 1995) sử dụng tranh mình vẽ lại bộ bài tới. Với bản thân mình, thích nhất vẫn là vẽ sư tổ Đạt Ma, Phanxipăng nờ.

 

Bồ đề Đạt Ma
Tranh: Nguyễn Đính (tức Trần Vàng Sao)

 

 

[*]

------------

PHỤ LỤC:

Dưới đây là bốn bài thơ của Trần Vàng Sao, trích từ tập Bài thơ của một người yêu nước mình (Nhà xuất bản Giấy Vụn, Sài Gòn, 2009).

 

Bài thơ của một người yêu nước mình

 

Buổi sáng tôi mặc áo đi giày

                                   ra đứng ngoài đường

Gió thổi những bông nứa trắng bên sông

Mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua

Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà

Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé

Tôi yêu đất nước này như thế

Mỗi buổi mai

Bầy chim sẻ ngoài sân

Gió mát và trong

Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng

Tôi vẫn sống

            vẫn ăn

                  vẫn thở

                           như mọi người

 

Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ

Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu

Một vết bùn khô trên mặt đá

Không có ai chia tay

Cũng nhớ một tiếng còi tàu.

Mẹ tôi thức khuya dậy sớm

Năm nay ngoài năm mươi tuổi

Chồng chết đã mười mấy năm

Thuở tôi mới đọc được i tờ

Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần

Nước sông gạo chợ

Ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ

Sống qua ngày nên phải nghiến răng

Cũng không vui nên mẹ ít khi cười

Những buổi trưa buổi tối

Ngồi một mình hay khóc

Vẫn thở dài mà không nói ra

Thương con không cha

Hẩm hiu côi cút

Tôi yêu đất nước này xót xa

Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng

Thương tôi nên ở góa nuôi tôi

Những đứa nhà giàu hằng ngày chửi bới

Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc,

                                                        như cho một đứa hủi

Ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới

Thắp ba cây hương

Với mấy bông hải đường

Mẹ tôi khóc thút thít

Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người

Con nó còn nhỏ dại

Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi

Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng

Tôi yêu đất nước này cay đắng

Những năm dài thắp đuốc đi đêm

Quen thân rồi không ai còn nhớ tên

Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng

Áo mồ hôi những buổi chợ về

Đời cúi thấp

Giành từng lon gạo mốc,

Từng cọng rau hột muối

Vui sao khi con bữa đói bữa no

Mẹ thương con nên cách trở sông đò

Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc

Đêm nào mẹ cũng khóc

Đêm nào mẹ cũng khấn thầm

Mong con khôn lớn cất mặt với đời

Tôi yêu đất nước này khôn nguôi

Tôi yêu mẹ tôi áo rách

Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu.

Tôi bước đi

Mưa mỗi lúc mỗi to,

Sao hôm nay lòng thấy chật

Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc

Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua

Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước

Chim đậu trên cành chim không hót

Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may

Tôi yêu đất nước này những buổi mai

Không ai cười không tiếng hát trẻ con

Đất đá cỏ cây ơi

Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha

Ăn quán nằm cầu

Hai hàng nước mắt chảy ra

Mỗi đêm cầu trời khấn phật, tai qua nạn khỏi

Tôi yêu đất nước này áo rách

Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió

Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở

Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài

Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai

Tôi yêu đất nước này như thế

Như yêu cây cỏ ở trong vườn

Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương

Nuôi tôi thành người hôm nay

Yêu một giọng hát hay

Có bài mái đẩy thơm hoa dại

Có sáu câu vọng cổ chứa chan

Có ba ông táo thờ trong bếp

Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen

Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em

Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò

Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ

Trong bước chân chim sẻ

Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi

Hay nói chuyện huyên thuyên

Chuyện trên trời dưới đất rất lạ

Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá

Cứ hay cười mà không biết có người buồn.

Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn

Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại

Ngó cây cam cây vải

Thương mẹ già như chuối ba hương

Em chưa buồn

Vì chưa rách áo

Tôi yêu đất nước này rau cháo

Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu

Áo đứt nút qua cầu gió bay

Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan

Tôi yêu đất nước này lầm than

Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển

Ăn rau rìu rau éo rau trai

Nuôi lớn người từ ngày mở đất

Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật

Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ

Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng.

Tôi đi hết một ngày

Gặp toàn người lạ

Chưa ai biết chưa ai quen

Không biết tuổi không biết tên

Cùng sống chung trên đất

Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam

Cùng có chung tên gọi Việt Nam

Mang vết thương chảy máu ngoài tim

Cùng nhức nhối với người chết oan ức

Đấm ngực giận hờn tức tối

Cùng anh em cất cao tiếng nói

Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do

Bữa ăn nào cũng phải được no

Mùa lạnh phải có áo ấm

Được nói cười hát ca yêu đương không ai cấm

Được thờ cúng những người mình tôn kính

Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định.

Tôi trở về căn nhà nhỏ

Đèn thắp ngọn lù mù

Gió thổi trong lá cây xào xạc

Vườn đêm thơm mát

Bát canh rau dền có ớt chìa vôi

Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc

Mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái tử

Đất nước hôm nay đã thấm hồn người

Ve sắp kêu mùa hạ

Nên không còn mấy thu

Đất nước này còn chua xót

Nên trông ngày thống nhất

Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam

Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc

Lòng vui hôm nay không thấy chật

Tôi yêu đất nước này chân thật

Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi

Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi

Và yêu tôi đã biết làm người

Cứ trông đất nước mình thống nhất.

 

(19-12-1967)

 

 

Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình

 

1.

 

tôi tuổi tỵ

năm nay bốn mươi ba tuổi

thường không có một đồng trong túi

buổi sáng buổi chiều

thứ hai thứ ba thứ bảy chủ nhật

trong nhà ngoài sân với hai đứa con

cây cà cây ớt

con chó con mèo

cái đầu gãy cái tay gãy của con búp bê

cọng cỏ ngọn lá vú sữa khô

thúng mủng chai chén sách vở quần áo mũ nón cuốc rựa trên ghế dưới bàn

hai ba ngày một tuần một tháng có khi không đi đâu hết

một hai ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa

miếng nước trà mốc nguội có mùi bông lài rát cổ

cũng không có chi phiền

vấn một điếu thuốc hút

hai ba lần tắt đỏ

rồi nửa chừng rách giấy

bạn bè gặp nhau

cho uống một ly cà phê

một lần

qua hai lần phải tránh

không phải ai cũng nghĩ như mình

nhiều đứa vui gặp nhau cho năm ba đồng một chục

đưa tay cầm lấy

miệng nói không được

 

2.

 

tôi thấy tôi như người tù được thả rông

lang thang giữa đường giữa phố

nhìn hết mọi người

xem mình lâu ngày mặt mũi có khác người không

tôi đi lui

tôi đi tới

phố phường đông chật

tiếng cười tiếng la tiếng nói tiếng xe cộ

chẳng có ai quen thử nói chào tôi một tiếng

tôi đưa hai tay lên đầu vuốt tóc

lấy chân hất một hòn đá

cúi xuống nhìn mấy bao thuốc không bên lề đường

rồi đi về

qua cầu dép sút một quai

tôi không muốn nhớ gì hết

 

3.

 

tôi ngồi trên hòn đá trước nhà

buổi chiều không có một con chim đậu trên cây

đám trẻ con chia phe bắn nhau cười la ngoài sân

đứa sống đứa chết cãi nhau ăn gian chửi thề

những người đi bán về nói chuyện to

hai đứa nhỏ nhà bên cạnh cầm đèn che miếng lá chuối

qua xin lửa hỏi tôi nấu cơm chưa

tôi cười lắc đầu muốn đi ngủ

trong gió có mùi rơm cháy

tôi không biết làm gì hết

tôi bỏ hai chân ra khỏi dép cho mát

đám trẻ con bỏ chơi chạy theo phá đàn trâu bò đi qua

tôi bước vào nhà mở rộng hai cánh cửa lớn thắp một cây đèn để lên bàn thờ

hai đứa con ra ngoài đường chờ mẹ chưa về

trời còn lâu mới tối

tôi đi gánh một đôi nước uống

 

4.

 

tôi sống yên ổn với những việc làm hàng ngày của mình

không định được ngày mai

có một đồng để mua cho con nửa cái bánh tráng hay hai cái kẹo gừng

có hai đồng cất dưới chân đèn trên bàn thờ

           lỡ khi hết dầu thắp tới bữa thiếu ruốc hết bột ngọt

mả cha cuộc đời quá vô hậu

cơm không có mà ăn

ngó lui ngó tới không biết thù ai

những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất

 

5.

 

lâu ngày tôi thấy quen đi

như quen thân thể của mình

tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi

buổi chiều không có cơm ăn

những con ruồi ăn nước mũi khô trên má

           những đứa đau quan sát những con chuột

                                  chết lòi ruột ở bến xe đò

những tiếng cha mẹ vợ chồng anh em con cái chửi bới la hét trong bữa ăn

người điên ở trần đứng làm thinh giữa trời mưa ngoài chợ

những ngày hết gạo hết tiền hết củi

          muối sống không còn một hột của tôi

những trách canh rau khoai tháng năm không có bột ngọt

hai mắt tôi mở to

đầu tôi cúi thấp

miệng tôi há ra

những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm

                               dồn cứng chật cuống họng

 

nói thật lúc này tôi muốn được say rượu

họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng

 

6.

 

nhiều khi tôi quá chán

chân tay rã rời

đầu óc đau nhức

không muốn làm gì hết

mấy đứa nhỏ chơi buôn bán bỏ đi đâu không biết

                                           để đất đá lá cây đầy nhà

tôi dựa cửa ngồi yên một chỗ

dụi mắt nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác

nói chi tới những đứa đã chết trên rừng giữa phố

bạn bè có đứa giàu đứa nghèo

đứa ngụy đứa cách mạng

đứa của tiền ăn tiêu mấy không hết

đứa không có được một cái áo lành

đứa đi kinh tế mới ba bốn bảy tám năm

                            trở về xách một cái bị lát

mặt cắt không có một hột máu

đứa đạp xe thồ ngồi vắt chân ăn củ sắn

                            chờ khách ở bến xe

đứa vô tích sự ở nhà không có việc chi làm

có đứa râu tóc dài che kín mặt

có đứa tàng không nhớ mình tên chi

có đứa chịu không nổi dắt vợ con vào nam

                                             ăn chợ ngủ đường

mỗi lần gặp nhau mở to mắt cười hút một điếu thuốc

hết chuyện nói

 

hai đứa con đi chơi về cười nói

đứa nhỏ bắt tôi đánh trống

             cho nó làm ông địa múa thiên cẩu

 

7.

 

cái trống lon mặt ni lông và hai chiếc đũa tre

tôi đánh

múa đi các con

này đây cái nón gãy vành làm đầu thiên cẩu

và sợi dây chuối treo ngọn lá làm tiền

múa đi các con

cái bụng ông địa to tròn giơ lỗ rún gài nút áo không được

ông địa chống tay vỗ bụng ngửa mặt lên trời cười ha ha

tôi vỗ tay hoan hô

và không biết mình có nhớ ra được

                             cái mặt ông địa không

 

(tháng 9 năm 1984)

 

 

Những điều có khi hôm nay bỏ qua không nhớ

 

những điều hôm nay có khi bỏ qua không nhớ

như ăn miếng cơm có hột sạn nhả ra trên bàn tay nhìn một lúc hắt xuống đất

rồi và miếng khác

như mặc trái cái quần cột dây lưng

sáng sớm đi ra vườn con sâu rớt trên áo

nắng buổi trưa một nửa trên tàu lá chuối

cái đuôi con thằn lằn rớt giữa nhà

đầu hôm chó sủa lảng ngoài cửa ngõ

những mảnh chai mảnh chén trên vạt đất mới cuốc lật

con mèo ngồi trên cái ghế đẩu dưới tấm cửa chống

tiếng chuột đuổi nhau nửa đêm trên mái nhà

có ai ở nhà bên cạnh kêu tên

cây cỏ lùng mọc dưới nước chết khô

những cọng rơm rớt vãi giữa đường

hai con trâu nằm nhai cỏ đầu ngã ba sợi dây dắt mũi chảy nước

con nhện sa trước mặt

tiếng trẻ con ru em buổi trưa trời nắng

những điều đó bỏ đi có khi tình cờ thấy lại

không kể năm

không kể tháng

không kể ngày

những bãi phân trâu trời mưa nước đọng vũng ở giữa

chiếc chiều rách phơi ngoài hàng rào

cái lưng ướt mồ hôi của đứa con gái đi qua trước mặt

tôi đứng yên một lúc

những miếng vá làm cho hai ống quần của tôi dày thêm và cứng lại

có chín mười giờ rồi

đèn hêt dầu

tôi lấy chai ra đường kêu cửa mua chịu

người bán hàng dim mắt ngó tôi đứng ngoài tối

mấy đứa bán bánh về gặp tôi giữa đường hỏi tôi đi chơi

trời mưa chưa to

đường đi có tiếng người

 

không biết ở nhà người khác về tôi có bỏ quên gì không

tôi cứ nhìn phía trước

gặp người quen chào đi khỏi một lúc lâu mới nhớ

tôi bỏ hai bàn tay vào túi quần xóc xóc đồng bạc kên

không biết mua cái gì cho con

con chuồn chuồn hết đạp nước rồi đậu trên dây thép gai

con bò kéo xe chở gạch bước lách cách

người đánh xe đội trụp cái mũ levis ngồi dựa ngửa hút thuốc

buổi chiều nước sông không có mặt trời

tôi xoa hai đồng bạc kên trên mấy đầu ngón tay

 

năm năm

mười năm

hai ba mươi năm

những nồi canh chuối cau trộn bột sắn khô đang nóng húp vội vàng

chảy mồ hôi nước mắt

ăn rồi ra đứng dựa cửa nhìn người đi qua đi lại

bạn bè gặp nhau cứ nói chuyện trên trời

miếng vá nơi quần lâu ngày chỉ đứt không biết

tôi tưởng tôi dại và quá tội

những điều bỏ qua khi không nhớ lại

con kiến cắn ở sau lưng

tay không với tới được

cuộc đời kể cũng vui

 

(ngày 20 tháng 3 năm 1985)

 

 

Buổi trưa giữa đường tôi ngồi núp mưa

 

rồi tôi chỉ còn lại có một mình em

như thằng điên tự vẽ mặt mình hề ngồi núp mưa trong góc phố

buổi trưa không có người đi qua đi lại tôi ngó cho đỡ buồn

tôi sẽ đi hết cơn mưa này tối tăm mặt mũi

em sẽ là người cuối cùng tôi còn nhớ lại

da tóc và lông lá

những giọt nước mưa chảy trong kẽ ngón chân

tôi rùng mình

trời mưa lâu quá

em không đi qua ngã này cho tôi thấy em ướt hết

tôi không còn tham lam gì nữa

tôi muốn ngồi ở đây rồi ngủ quên

một người

hai người

mưa như to thêm

một ngàn một vạn muôn vạn ức triệu người chết

hôm qua

hôm nay

mai mốt nữa

Timishoara Budapest Praha Berlin Bucarest Sofia Siberia Thiên An Môn

súng máy súng trường dao găm lựu đạn

xe tăng thiết giáp

thuốc độc thuốc mê

chết đứt đầu chết mất xác

chết bị moi óc

chết bị móc mắt

chết như kiến chết

chết ruồi bu kiến đậu

chết không kịp ngáp

chết buổi sáng

chết buổi trưa

chết buổi chiều

chết lúc nửa đêm

chết oan ức

chết tức tối

chết nghiến răng

chết trợn mắt

chết trong tù

chết ngoài đồng

chết giữa đường phố

chết trong hầm mỏ

chết một mình

chết tập thể

chết không có giấy đắp mặt

chết không ai chôn

chết hết đường chết

chết trần truồng như cha mẹ sinh ra

lúc đó

kẻ giết người không đeo mặt nạ

kẻ giết người không làm dấu thánh

kẻ giết người không lần tràng hạt nam mô

kẻ giết người đứng đọc diễn văn

kẻ giết người hô nhân dân muôn năm

kẻ giết người cười

kẻ giết người sửa lại cổ áo

súng máy xả vào đám đông

nhân dân tôi muôn năm

lúc đó

không còn tiếng người la hét nữa

 

trời mưa to thêm

một người đàn ông bên kia đường chạy qua đứng chen chân vào chỗ tôi ngồi

người đàn ông nhìn tôi

tôi không nghe tiếng người đàn ông nói

tôi đứng dậy hút thuốc bước ra ngoài

người đàn ông ngồi vào chỗ tôi

tấm băng khẩu hiệu giăng giữa hai cột điện nước trôi còn hai chữ muôn năm không có N

không biết ở nhà mấy đứa con có lấy áo quần phơi ngoài dây thép vào không

 

(ngày 17 tháng 1 năm 1990)

 

 

 

-----------------------
Bấm vào đây để đọc những tác phẩm của Phanxipăng đã đăng trên Tiền Vệ.

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021