|
Trong thành phố | Cuộc viếng thăm | Thêm một phái đoàn | Bùn nhão
|
|
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
TOMASZ JASTRUN
(1950~)
Tomasz Jastrun sinh ngày 15.9.1950 tại Warsaw, con của nhà thơ Mieczysław Jastrun [1903-1983], là một nhà thơ, người viết tiểu luận, đã khởi đầu sự nghiệp với tập thơ đầu tay Bez usprawiedliwienia (Không bào chữa, Warsaw, 1978), tiếp theo là tập Promienie blednego kola (Những đường bán kính của vòng lẩn quẩn, Nhà xuất bản Văn học, Krakow, 1980 - đoạt Giải thưởng Văn bút)) và đã xuất bản nhiều tập thơ khoảng trước năm 1989 – phần lớn là in bí mật: Biala Laqua (Đồng cỏ trắng, Warsaw, 1983 – một thứ biên niên dưới hình thức thơ, ghi lại quãng thời gian ông bị giam giữ), và Na skrzyżowaniu Azji i Europy (Nơi châu Á và châu Âu giao nhau, do Nhóm độc lập các nhà thơ và họa sĩ [bí mật] xuất bản, 1983).
Là một trong những người chống chế độ thiết quân luật (tiếng Ba Lan gọi là stan wojenny, “tình trạng chiến tranh”) do Nhà nước áp đặt ở Ba Lan sau 1981, ông là nhà thơ nói thẳng và được đánh giá rất cao. Là một trong những người gắn bó hoạt động trong phong trào công đoàn đối lập Đoàn kết (Solidarnosc), Tomasz Jastrun từng cho đăng một phóng sự nổi tiếng về những cuộc đình công tháng Tám 1980 ở Gdansk trong Puls, tạp chí định kỳ nửa bí mật ở Lodz, và thời gian này ông phụ trách mục “thông tin văn hóa” trong Ủy ban Văn hóa của Công đoàn Đoàn kết. May mắn thoát được cuộc săn bắt “toàn bộ” của nhà nước Ba Lan vào ngày 12.12.1981, một năm sau ông bị đưa vào trại giam Bialolleka (sau này sẽ trở thành nhan đề của một trong những tập thơ của ông). Từ 1985, thơ ông mới bắt đầu xuất hiện công khai, với Kropla, kropla (Một giọt, một giọt, 1985), Wezel polski, Wiersze stare i nowe (Cái gút Ba Lan, Những câu thơ cũ và mới, 1988)... Cuối những năm 80, ông hoạt động trong Ban biên tập tờ báo Res publica, và từ 1990 ông là Tùy viên Văn hóa Tòa Đại sứ Ba Lan ở Thụy Điển.
Với một sự nghiệp văn học có thể coi là đồ sộ gồm thơ và tiểu luận, ông nhận được nhiều giải thưởng ở Ba Lan. Tập thơ nổi tiếng On the Crossroads of Asia and Europe của ông. do Daniel Bourne chuyển ngữ (Salmon Run Press, 1999), đã góp một phần lớn đưa tên tuổi ông đến với người đọc thế giới.
Trong thành phố Không có gì thay đổi
Vẫn là những ngôi nhà ấy
và vẫn những đường phố mệt mỏi ấy
Nhưng con người bước đi một cách khác
Tựa như họ sợ
Mất đi
Phẩm giá mà họ mới
Chiếm được
Tháng 8, 1980.
Cuộc viếng thăm Một nhà thơ nổi tiếng đến thăm chúng tôi
Ông ta trông buồn lắm
Ông kể cho chúng tôi ông được nhiều người đọc
Và cho biết ông đang dự kiến viết những gì
Tôi muốn mở sách ra – đọc một cái gì của ông –
Nhưng sách có một cái bìa cứng nhắc
Và cả bốn cạnh đều đóng kín
Thế là tôi chịu thua
Và nghe ông nói về chuyện viết lách
Viết lách khổ như thế nào
Khi ra về ông chìa tay cho tôi cách miễn cưỡng
Tôi nhìn ông từ dưới nhìn lên
Và tôi nhận ra là những đỉnh cao của ông
Phủ đầy tuyết
Thêm một phái đoàn Từ Krosno một phái đoàn đến đây
Mười bốn người
Trong những bộ đồ sậm
Bây giờ họ đứng trên bục gỗ
Dưới mặt trời những ánh đèn
Và ai nấy ngạc nhiên
Nhận ra thay đổi các nền tảng
Thế giới quả là chuyện
Quá dễ
Bùn nhão Họ luôn miệng nói Thực thể của đất nước
Phải được cứu nguy
Bằng mọi giá
Thế nên họ đem giấu nó
Dưới giường và giấu lặng lẽ
Và họ đi lòng vòng những toán cảnh sát tuần tra
Và đi lòng vòng cả một số đề tài
Ít năm sau họ lôi nó ra
Nó là một cục bùn nhão
Bềnh bồng những cầu mắt của ai đó
Và một nhẫn cưới bằng vàng
Từ ngón tay của ai đó
----------------
“Trong thành phố”, “Cuộc viếng thăm” và “Thêm một phái đoàn” dịch từ bản tiếng Pháp “Dans la ville”, “Visite” và “Une délégation de plus” của Lucienne Rey và Gérard Gaillaguet trong Témoins – quarante-quatre poètes Polonais contemporains 1975-1990 (Les Ateliers du Tayrac, 1996). “Bùn nhão” trích từ Thơ mới Ba Lan, Hoàng Ngọc Biên dịch và giới thiệu, 160 trang, Nhà xuất bản Trình bầy, 1993.
|