thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Phạm Công Thiện và một quãng đời tuổi trẻ tôi

 

Tôi hay tin Phạm Công Thiện mất khá muộn. Tôi thường trễ mọi sự; dù nhiều lần hối tiếc tôi vẫn tiếp tục trễ, có khi là bỏ lỡ điều gì đó: cơ hội xây đắp cuộc đời, có thêm bạn bè... Và lần này tôi bỏ lỡ dịp đến dự lễ cầu siêu cho Phạm Công Thiện do thày Tuệ Sỹ tiến hành ở chùa Già Lam.

Liệu tôi có quá trễ với toà soạn khi gởi bài viết này để tưởng niệm Phạm Công Thiện?

“Bằng tâm hồn lồng lộng, đôi mắt long lanh rực sáng, trái tim ngùn ngụt cháy, giọng nói phẫn nộ u buồn, PCT xứng đáng đại diện cho không chỉ tuổi trẻ Việt Nam mà thế giới, cất lên tiếng nói bi tráng trong một thế giới đổ vỡ.” Tôi đã viết như vậy trên trang đầu quyển Ý thức mới trong văn nghệ và triết học An Tiêm tái bản lần thứ ba năm 1966 sau khi đọc lướt qua nó năm 1968, năm tôi 18 tuổi.

Tôi cũng đã ghi thế này ở một cuốn sách khác của ông, cuốn Ý thức bùng vỡ, Phạm Hoàng xuất bản năm 1970: “TCS theo gót Bob Dylan, Lê Uyên Phương theo con đường J-P Sartre, PCT không theo ai cả. Không biết PCT có đẩy được các tư tưởng hiện có xuống hố thẳm, có đốt được tư tưởng nào nằm dưới hố thẳm? Việc làm ấy giống như giai đoạn đầu của một cuộc cách mạng; điều rất hay là ông không hề làm đổ một giọt máu.”

Thuở ấy ngày nào tôi cũng đọc báo (trước nhà tôi có một sạp báo), tôi đọc cọp nhật báo mục “từ thành đến tỉnh”, truyện tranh “Kho tàng đảo Mai Sơn”, “Tề thiên đại thánh”, “Lucky Luke”, “ Xì trum”... ; truyện chưởng “Cô gái đồ long”; đọc Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc...

Đến đệ tứ và đệ nhị (nhảy đệ tam), tôi bắt đầu đọc Mai Thảo, Duyên Anh... Rồi Phạm Công Thiện.

Hồi đó đi học, tôi xối nước lên tóc; và dù nhà nghèo, tôi vẫn chải đầu ướt mượt, cài măng-sết tay áo, mang vớ, mang giày. Để làm gì? Làm dáng chứ gì nữa!

Từ lúc vớ được Phạm Công Thiện, cặp tôi có thêm quyển sách của ông. Cũng để làm dáng chứ đâu có thực đọc; mà có đọc cũng đâu có hiểu!

Thực ra tôi có đọc lướt qua hơn 1.000 trang của 2 quyển sách ấy. Và đọc kỹ 2 lá thư của Phạm Công Thiện viết từ Nha Trang, một gởi Huy, một gởi Hồng. Tôi đã có cảm xúc mạnh sau khi đọc 2 lá thư ấy. Tôi rất thích cách diễn đạt hừng hực lửa mà u buồn thơ mộng của ông, khả năng văn chương của ông.

Tôi ngưỡng mộ Phạm Công Thiện, trước nhất vì đoạn giấy quấn quanh cuốn sách ghi: thiên tài thực sự vĩ đại là người coi tất cả thiên tài khác như cỏ rác. Sau này tôi mới nhận ra kiến thức rộng, sức cảm thụ sâu sắc về tư tưởng, triết và văn chương, trình độ ngoại ngữ của ông. Chính ông mới thực là nguồn sơ nguyên cho cảm hứng văn chương của tôi chứ không phải Nguyễn Hữu Hiệu, như tôi đã viết sau này. (Tôi đọc Con đường sáng tạo của NHH năm 1973).

Ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn làm tôi quan tâm đến chiến tranh, nhưng chính những cuốn sách của Phạm Công Thiện mới làm tôi ray rứt về chuyện máu lửa trên quê hương. Tôi bắt đầu đọc tin chiến sự trên nhật báo.

Nhiệt độ của chiến tranh mỗi lúc mỗi tăng. Lửa cháy khắp nơi: lửa từ cao nguyên đổ xuống, lửa từ đồng bằng tràn lên. Sức nóng lan tới Sài Gòn, rồi lửa bùng cháy ở ngay thủ đô.

Nhà cháy từ thành thị đến thôn quê. Người chết khắp nơi, ở rừng sâu, ở đồng ruộng, trong giáo đường và chùa chiềng, nơi gầm cầu, phố chợ... .

Tôi không còn dửng dưng trước thảm trạng quê hương, nhưng không biết phải làm gì.

Tôi tiếp tục nghe nhạc, chú ý nhiều hơn Ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn. Ngoài văn chương, triết, tôi bắt đầu đọc các quyển Nhận định của Nguyễn Văn Trung. Và gia nhập Đoàn Thanh niên Công tác Xã hội.

Nước mắt, lời than van của nạn nhân chiến tranh không khiến súng ngừng nổ, bom thôi rơi.

Tôi nhận ra lao vào Sartre là chui rúc vào cái vỏ của mình, trốn vào thời khắc hiện tại, bây giờ; những nhận định, dù là nhận định của giáo sư Nguyễn Văn Trung chỉ là những nhận định; âm nhạc không giải quyết được gì, “Mộng dưới hoa”, “Bến Xuân”, “Em đến thăm anh một chiều mưa”, “Mùa thu trong mưa”... chỉ an ủi tôi trong vài phút. Tôi cũng nhận ra lao vào Trịnh Công Sơn cũng vẫn để trốn chạy, bởi than van, phẫn nộ, gào thét, lên án cũng không giúp giảm cường độ chiến tranh; công tác xã hội quá ít ỏi nhỏ bé không bù đáp được mất mát vì trong khi tôi góp tay sửa chữa, dựng lại một ngôi nhà thì có hàng chục ngôi nhà khác đang bốc cháy.

Tình yêu ư? Càng yêu nhiều càng lo sợ nhiều. Những cuộc chia tay thời chiến không hàm chứa niềm vui tái ngộ.

Tôi đọc Phạm Công Thiện lần nữa, rồi lần nữa...

Đọc lại, tuy không hiểu hết những gì ông viết, tôi thấy những dòng mình đã viết ngây ngô, hời hợt. Và trống rỗng. Có lẽ tôi chịu ảnh hưởng của ngôn từ của ông, có lẽ vì tôi còn trẻ; với kiến thức ít ỏi của mình, tôi đã không lãnh hội được gì nhiều ở các quyển sách.

Khác lần đầu, tôi thấy trong lúc mình mon men đến, và đứng bên ngoài chiêm ngưỡng, thán phục hoặc chỉ rụt rè đặt chân vào các toà lâu đài đồ sộ, uy nghi của triết học, tư tưởng để tìm xem bên trong có gì, thì Phạm Công Thiện xông thẳng vào những nơi ấy.

Để làm gì?

Để xô ngã nó! Thái độ của kẻ ảo tưởng? Tự kiêu? Điên? Có thể mỗi thứ một chút.

Có thể ông không làm được; tuy nhiên đó là hành động cần thiết. Các toà lâu đài dù tráng lệ, lộng lẫy, đồ sộ đến đâu qua thời gian cũng sẽ mục nát hoặc đóng rêu.

Nếu không, nó phải chịu thử thách chứ?

Phạm Công Thiện có xô ngã toà lâu đài nào không, tôi không biết. Mà cho dù ông không làm được việc ấy; cho dù ông không làm tróc đi một mảnh rêu phong nào, thì ông cũng đã thành công: ông có thể quên nó đi như khi người đã chinh phục được đỉnh núi và leo xuống; có trầy trụa, chảy máu đôi chút cũng không sao. Nhưng tôi tin rằng Phạm Công Thiện vẫn lành lặn.

Đọc lại Phạm Công Thiện, tôi nhận ra sự dốt nát non nớt của mình khi viết ông muốn làm cách mạng. Điều ông muốn tìm kiếm là ý thức mới trong văn nghệ và triết học, như tựa sách bày ra trước mắt. Cái mà ông chống lại, là các luận cứ giáo điều, để con người không mất hồn nhiên, không bị héo úa, máy móc hoá. Ông thúc đẩy sự sáng tạo. Nguyễn Hữu Hiệu đã viết cả một quyển sách dày nói về/thúc đẩy sáng tạo; Phạm Công Thiện hành động cho điều ấy!

Dĩ nhiên Lê Uyên Phương không theo con đường Sartre và Trịnh Công Sơn không hề nối gót Bob Dyland như tôi hồ đồ viết; tuy nhiên họ chỉ nói lên một mặt, một vấn đề của nhân loại, tâm tình của một phần tuổi trẻ; Phạm Công Thiện nói lên vấn đề phủ trùm thế giới, tâm tình của toàn bộ tuổi trẻ, và phi thời gian. Ông không chỉ viết cho tuổi trẻ trong chiến tranh mà ông còn viết cho những tâm hồn trẻ trong mọi thời đại.

“Các bạn bè thân yêu của chúng tôi đang gục chết trên cánh đồng biên giới... khói lửa ngút trời... những mái tóc xanh trở thành những bãi cỏ xanh trên những nấm mồ trận địa... Lý tưởng là gì? Lý tưởng là gì?...Chúng tôi không cần lý tưởng... ”

Phạm Công Thiện viết như thế, năm 1964, nhân danh tuổi trẻ -- những thanh niên từ 15-25 tuổi. Tôi lúc ấy 14 tuổi, cái tuổi ông gạt ra ngoài, cho rằng “hãy còn ngây thơ quá”; nhưng tôi già trước tuổi (trước đó, 1963, nghe tin tổng thống bị lật đổ tôi nuốt không trôi chén cơm), trong lớp bạn bè đặt cho tôi biệt danh “ông cụ non”. Cùng thế hệ với ông, tôi thấy mình trong lứa tuổi ấy.

Tôi thích giọng văn của Phạm Công Thiện. Đó là giọng tôi muốn có mà không nói được. Nhưng hề chi khi tôi phẫn nộ, đau đớn giống ông, và có suy nghĩ giống ông.

Chính vì vậy, khi thày Nhất Hạnh “nói với” Phạm Công Thiện, cũng là nói với tuổi trẻ, tôi thấy thày đối thoại với tôi.

Đúng là ở bậc Trung học đệ nhất cấp tôi có hun đúc cho mình một lý tưởng; nhưng lớn hơn một chút, ở bậc đệ nhị cấp, sau khi đọc Phạm Công Thiện, tôi đã buông bỏ lý tưởng ấy (lý tưởng tôi cũng chưa biết cụ thể là gì), tôi bỏ một cách thản nhiên, nhẹ nhàng như bỏ đi một viên đá khỏi bàn tay, không màng đến nó có thể là kim cương thô. Để làm gì? Để “lao mình vào đời với trọn vẹn hồn nhiên, ngạc nhiên, thao thức, bỡ ngỡ mới lạ trong từng giây phút một.”

Cũng với một giọng văn ôn tồn chan chứa tình cảm và đầy thuyết phục như ở Bông hồng cài áo, thày Nhất Hạnh trong “Nói với tuổi 20” trách móc một cách khéo léo ngọt ngào tuổi trẻ chúng tôi, cho rằng chúng tôi không có lý tưởng thì xác chết nào mới có, bảo chúng tôi nhận lấy gia sản thế hệ ông trao lại.

Đọc Nhất Hạnh tôi bối rối, tự hỏi phải chăng tôi nên nhặt lại viên đá?

Tôi hoang mang không biết phải làm gì. Tôi bị giằng co giữa hành động tiếp tực theo Phạm Công Thiện, “lao mình trần truồng vào trong mưa và nhảy múa”, hay đi theo thày Nhất Hạnh?

Đi theo thày Nhất Hạnh?

Ngoài những lời kêu gọi với lời lẽ ôn tồn dạt dào tình cảm của thày, tôi thấy thày chỉ làm được một việc cụ thể là thành lập và dẫn dắt thanh niên đi “phụng sự xã hội”. Có phải đó là công tác xã hội? Nếu phải, tôi đã làm điều ấy rồi.

Bài thơ “Hoà bình” của thày đã làm tôi chảy nước mắt; tuy nhiên trước đó, lệ đã ướt mi tôi rồi.

Sau đó tôi nói thầm: “Thôi được, cứ cho rằng chúng tôi vẫn có lý tưởng; nhưng là lý tưởng nào sao thày không nói rõ! Thày kêu gọi chúng tôi nhận lấy trách nhiệm, nhưng phải làm gì thày không nói; hay chính thày cũng không biết?”

Thế đấy! Sự khôn ngoan, sáng suốt, kinh nghiệm của người lớn!

Tôi tiếp tục đi theo Phạm Công Thiện:

“Chúng tôi không cần các ông nữa... các ông đã chết... Chúng tôi không cần kinh nghiệm... Quê hương Việt Nam đang đổ vỡ; chúng tôi sẽ gánh lấy sự đổ vỡ ấy trên hai vai yếu đuối... Chúng tôi sẽ đi và chỉ đi một mình.”

Nhưng rồi tôi tự hỏi trong khi Phạm Công Thiện đang đốt Heidegger, Hegel, Schopenhauer, Husserl, Sartre, Khổng tử...; phải chăng tôi đang tự thiêu trong ngọn lửa của ông?

Và lửa của ai đang đốt quê hương tôi?

Tôi nhận ra lao vào Phạm Công Thiện cũng vẫn là trốn chạy, như tôi từng trốn vào những thứ trên kia.

Rõ ràng Phạm Công Thiện không chấm dứt được chiến tranh!

Nghe theo thày Nhất Hạnh, tôi nhặt lại hòn đá.

Tôi thôi nghe nhạc tình, thôi làm công tác xã hội, thôi đọc sách, xé bỏ những gì đã viết.

Vâng, tôi có lý tưởng, lý tưởng đó là gì tôi chưa biết, nhưng nó không cho phép tôi trốn chạy nữa. Tôi phải ngừng tự vấn, để dấn thân, để nhập cuộc.

Nhưng tôi sẽ đứng về phía nào, bên này hay bên kia sông?

Quyết định đến nhanh chóng: Vì tôi sinh ra, lớn lên, trải qua tuổi thơ tuy nhọc nhằn khốn khó nhưng thanh bình ở bên này, nên tôi đứng vào bên này chiến tuyến.

Không muốn làm kẻ sát nhân, tôi vẫn phải cắn răng bắn giết, tự an ủi rồi sẽ sớm hoà bình...

Nhưng than ôi! Biết bao là đổ vỡ, biết bao người tuổi trẻ đã gục ngã, biết bao người khác đã cụt tay cụt chân, nước mắt đã chảy đến cạn, đau thương đã ngút trời, tất cả đều vô ích.

Tôi lại buông bỏ viên đá.

Súng không còn nổ bên kia núi và không còn ai giãy giụa chết trong mưa; sao vẫn còn khóc, hỡi quê hương yêu dấu?

Nước mắt còn chảy đến bao giờ?

Tôi lại cầm lên những quyển sách của Phạm Công Thiện.

Đọc lại ông, tôi lau nước mắt.

Tôi cầm lấy bút, bắt đầu viết lại.

 

Thu Phong
26-3-2011

 

 

-----------------

Bài liên quan:

[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Nó ngồi viết, không cố gắng, không mục đích, không ý nghĩa. Nó không đi tìm hạnh phúc. Nó đang ngồi thở thanh bình, thở im lặng, thở gió, thở trái đất. Hơi thở không thuộc về ai cả. Hơi thở là con bướm trắng tung tăng trên cỏ... (...)
 
Tro  (truyện / tuỳ bút) - Thận Nhiên
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Cuốn sách nhỏ ấy là một người thầy, với riêng tôi. Nó dạy tuổi trẻ tôi những bài học làm sao sống đến cạn cùng sự chán chường, sự thơ mộng, sự rồ dại, sự khao khát, sự giận dữ, sự phóng thả, và quan trọng nhất là nó làm tôi “cháy”... (...)
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Chưa bao giờ thương những con chim như chiều nay / tràn đầy mặt đất / những con chim thêu niềm tuyệt vọng / lao về phía tàn tro / cháy bừng / Mộng mị...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... tới đây ai cũng thấy câu chuyện của tôi ngày hôm ấy quả tẻ nhạt, đúng không? // thế thì đây, điểm nhấn / ... tôi lặp lại: chẳng ai gạt được cái chết hết, cho dẫu cái chết cũng một thứ bịp bợm nốt “... rạng đông tôi xin thề thức dậy ba giờ sáng” ...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... em đừng nói với tôi về rừng / buổi chiều hình như đã mưa / cơn mưa phùn mãi mãi ở lại chứ không bay đi như cơn mưa phùn của Thiện / em cũng đừng nói với tôi về mặt trời / vốn không bao giờ có thực...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Ông còn tiên đoán cho thế giới đến khi ông trăm tuổi. Nhưng tôi dừng trích ở đây vì ông đã vừa “đi hết một đêm hoang vu trên mặt đất”, ở tuổi 71. Từ giờ khắc này, ông sẽ nhìn Hy mã lạp sơn bằng con mắt của “loài” khác. Từ bây giờ, tôi cũng đang cảm thấy có một Hy mã lạp sơn đã bắt đầu sụp đổ và tan chẩy. Cho một đại dương cuộc sống mới hình thành... (...)
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Thiện ơi, tôi vẫn thỉnh thoảng đọc câu thần chú “Gaté, Gaté, Paragaté, Parasamgaté, Bodhi Svaha” mà bạn đã dạy cho anh em cầu nguyện tai qua nạn khỏi mỗi lần đi qua những nơi đèo heo hiểm trở. Và đôi khi tôi tự hỏi có nên tiếp tục khấn câu thần chú này nữa hay thôi, khi mà được trở về Vương Quốc Hư Vô là một ước nguyện giải thoát. Bây giờ bạn đã giải thoát... (...)
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn về thành phố Mỹ Tho, dạo quanh vườn hoa Lạc Hồng, có dãy nhà xây kiểu Pháp, một thời Phạm Công Thiện và gia đình sống ở đây, cố hình dung gương mặt ông lúc hai mươi tuổi... (...)
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... gió thổi mưa chiều thứ bảy đã về sớm / cây khế đồi cao không kịp trổ / gió thổi gió thổi gió thổi / hiện tượng cơn bão // Thiện nói Henry Miller chết tôi không buồn / con ong chết tôi buồn lắm / tôi nói trời đất chết tôi không bất ngờ / Phạm Công Thiện chết tôi ngờ ngợ lắm...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... tôi nhớ lại xa lắm những ngày áo sinh viên văn khoa / tuổi đôi mươi tôi tóc dài huyền hoặc / con mắt trần gian đen tròn mê hoặc / sách vở trên tay vụng về chạy theo Sartre / thao thức bức rức nức nở tìm trong Thiện / giọt nắng sân văn khoa thấu qua tôi đau điếng / giọt mưa đường cường để thấm lạnh da con gái / cơn miên man dậy men tự bao giờ...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Tôi tin tưởng vào thiên tài. Với tôi, Phạm Công Thiện là thiên tài. Thiên tài không ở trí tuệ anh, không ở các sáng tác của anh, càng không phải thiên tài ở tư tưởng anh, mà chính là ở sức hút kinh hoàng của hơi thở ngôn ngữ Phạm Công Thiện. Dù hiểu hay không hiểu, ngôn ngữ kia vẫn ẩn chứa sức lôi cuốn ma quái khó cưỡng. Như chớp lửa thiêng sẵn sàng thiêu trụi mọi lưỡng lự, e dè, triển hạn ngáng đường những tâm hồn đồng thanh đồng khí ý hướng tìm đến nhau trong chân trời hủy phá và sáng tạo... (...)
 
Buổi sáng Jakarta  (truyện / tuỳ bút) - Phan Nhiên Hạo
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Thiên tài của Phạm Công Thiện là điên được trong văn chương, một cách chân thành, rực rỡ. Ngoài đời ông có điên hay không tôi không biết, không chắc, không quan trọng. Phạm Công Thiện điên được cũng vì ông sống ở miền Nam, nơi có tự do. Những con chim trong lồng không hiểu được điều này, chúng sẽ nói tự do không làm nên tác phẩm lớn. Chúng không biết rằng điều quan trọng đối với phần lớn thi sĩ không phải tác phẩm lớn hay bé, mà là quyền được điên. Điên mà không sợ bị kiểm điểm, bị phê bình, bị trừng phạt bởi lợn... (...)
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Giờ thì tôi nhận ra khu phố mình ở khá nhiều quạ / Nhiều đến nỗi trời mới hừng sáng tiếng chúng kêu dậy trời / Cái tiếng quạ / Thật không lẫn vào đâu được / Hễ nghe thấy nó là liền nghĩ tới những giấc chiêm bao mà chả hiểu vì lí do gì (!) bao lâu nay mình đã không còn nhớ nữa? // Hiện thời lại nghĩ tới bầy quạ đen / cây cam sai trái của phạm công thiện trong “đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất”...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... hơi thở Rắn / trườn đại dương / qua xác thối mặt trời / những đám đông mù loà hò hét / bủa lưới vây lòng hồ thối ngạt / qua rừng đạn, dùi cui / chết chết chết // vành tang cạn...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... tờ giấy hẹn nhiều năm quay trớ / những con ong bay trong phòng / nắng mật lên sớm ngày gối xếp bằng đảnh lễ / sự nhớ cổ tóc con người giữa trang bát nhã / bối rối tiếng kim thanh / bậc đá cuối nhảy lên mười hai ngày chữ xếp cất / cuộc đi ngang trâu xanh gà tía gọi mời / xao xác trưa nhà chân đèo bỏ phế...
 
Phạm Công Thiện và đỉnh lặng  (tiểu luận / nhận định) - Trịnh Thanh Thủy
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... . Ông đã đi trong thế giới hàng ngàn tiếng động, để tâm chao theo từng sát na nhiễu nhương cuộc đời. Ông đã ngồi thiền nghe chim hót quanh mình, nghe thân động, tâm động, tình yêu động. Nhưng phút cuối trên tất cả đỉnh cao là lặng yên, ông đã yên lặng đời đời... (...)
 
Cái rực rỡ của tuyệt vọng  (tiểu luận / nhận định) - Nguyễn Quốc Chánh
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Tôi đọc ông là đọc cái ngữ điệu của thơ mộng trong phẫn nộ và tuyệt vọng. Ông rất giàu những loại ngữ điệu đó, dù ông viết về bất cứ cái gì. Đối với tôi những ngữ điệu đó là cơ sở của nhân tính và thi tính. Cái nhân tính và thi tính nếu không giáp mặt với tuyệt vọng, nó không có khả năng thu hút. Và nếu cái tuyệt vọng bị cái phẫn nộ nung chảy thì nhân tính và thi tính sẽ rực rỡ. Chữ của Phạm Công Thiện là chữ của cái tuyệt vọng rực rỡ... (...)
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Phổ từ bài thơ “Buồn” trong thi tập Trên tất cả đỉnh cao là lặng im của Phạm Công Thiện (California: Viên Thông, 2000), Jazzy Dạ Lam viết xong ca khúc “Thôi hết còn gặp nhau” vào năm 2001, cách đây đúng 10 năm, nhưng chưa bao giờ công bố. Phạm Công Thiện vừa ra đi, và hôm nay Jazzy Dạ Lam thu âm ca khúc này lần đầu để tưởng niệm nhà thơ đã khuất...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Một cụm mây lang thang vô sở trú / Đã tìm về Nguyên Tánh / Đai bi đại bi cõi ta bà / Bay về đâu bay về đâu Những cơn mưa phùn...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Khi Nguyễn Xuân Hoàng từ San José / điện thoại báo tin Phạm Công Thiện đã chết / tôi đang ăn múi cam mà nghẹn / buổi chiều mưa mù trởi, lại tiếng còi tàu ứa nước mắt...
 
Chuông ngọ  (thơ) - Trúc-Ty
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Từng khắc thời gian nhỏ giọt, bên dòng sông trôi / dòng cát chảy ùn lên / thành bờ cát trắng, tích luỹ sau / hàng thập niên ánh sáng, sau khi lọc bỏ tất / cả những mảnh vụn bám vào đó, là mỗi chúng ta? / Có phải chúng ta là những bóng ma lếch thếch / rụng lả tả dưới hồi chuông chói loà...
 
Trên tất cả các đỉnh cao...  (tiểu luận / nhận định) - Nguyễn T. Long
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Viết đôi dòng tưởng niệm ông, như một triết gia, một nhà văn, một nhà thơ, như thể một thế giới ở ngoài tôi? – Có lẽ là không. Chỉ còn lại những gì mà Phạm Công Thiện đã hé mở, đã kêu gọi, đã khơi dậy, đã thách thức... trong lòng một thế hệ, một thời đại mà ông cùng chia sẻ. Phạm Công Thiện đã qua đi, không chỉ là một con người, mà là của một thời đại đã qua... (...)
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Mình vẫn ước mình gặp Thiện sớm hơn, ở tuổi 16 chẳng hạn, khi còn quên ăn quên ngủ chỉ để thao thức trò chuyện cùng các nhân vật trong tiểu thuyết về tuổi trẻ, tình yêu, ý nghĩ cuộc đời, về văn chương, về tội ác, về sự cao cả, về lòng thương, về lý tưởng, về tất cả... Mình thèm cái cô đơn cái rồ dại cái say sưa của những tình bạn tình yêu ở cái thời thèm sống lẫn thèm chết ấy... (...)
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Ta sẽ hiện hồn về ngay trong đêm nay để vặn cổ hết những đứa phạm công cúc hoa gọi ta là thần đồng / Không, ta sẽ hiện hồn về ngay trong đêm nay để kéo cẳng những đứa phạm công cúc hoa gọi ta là thiên tài / Ừ, ta sẽ hiện hồn về ngay trong đêm nay để thọt lét những đứa phạm công cúc hoa gọi ta là bồ tát...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Đi qua buổi chiều / những phân tử mùa thu tan, rã / mặc dầu giấc mơ chín, non / gió ngất từng chùm, cụt đầu / con nai chạy tìm bóng mình / truông cũ // đi qua tiếng hát / thôi hết còn gặp nhau...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... và thi sĩ của lòng tôi / cũng đã bay rồi phải không / nỗi ám ảnh thơ mộng dị kỳ của những tiếng nổ mặt trời / cũng đã thành địa chấn của bao thế hệ / tôi đang sống / mà cũng đang dở chết / ông cũng đã chết lên chết xuống / trong những lưu đày của một hành giả / đi qua đời / và dùng hết tàn hơi / thổi lên vầng mặt trời thứ ánh sáng nguy nga...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Tôi đang sống tại Đà lạt, và tôi cũng yêu thành phố này. Càng yêu hơn, khi nhớ rằng, đã có một quãng đời Anh sống tại đây. Một ngày nào đó, tôi sẽ men theo những dòng chữ của Anh, để “hành hương” về những nơi đã từng in dấu gót chân Anh... (...)
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... thiên tài đã bay cao / tít lên thiên đường mù / sao tớ còn lảo đảo / đứng chờ ai bám trụ / trước cửa một nhà kho...
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Tôi tin rằng giờ đây thi sĩ Phạm Công Thiện và thi sĩ Quách Tấn đang cùng nhìn nhau mỉm cười thật hồn nhiên và cao hứng ngâm tràn những câu thơ đầy bí ẩn trong một chiều kích thơ mộng khác vượt khỏi không-thời gian tương đối của lịch sử trần thế... (...)
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Tôi đã nghe khá nhiều nhà thơ trẻ ở Sài Gòn, thuộc lứa tuổi của Khương Hà (sinh sau năm 1980), mỗi lần nhắc đến Phạm Công Thiện đều chỉ nói “Thiện” như thế. Không có họ, không có tên đệm gì cả. Chỉ “Thiện” thôi. Lúc đầu, thoạt nghe, thú thật, tôi hơi có chút ngỡ ngàng. Nhưng sau, ngẫm lại, lại thấy hay. Nó có cái gì gần gũi, thân mật và thân thiết lạ lùng. Một sự gần gũi, thân mật và thân thiết, thứ nhất, có tính xuyên-thế hệ, và thứ hai, không hề có ở bất cứ một người cầm bút nào khác... (...)
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Súng không còn nổ bên kia núi và không còn ai giãy giụa chết trong mưa; sao vẫn còn khóc, hỡi quê hương yêu dấu? Nước mắt còn chảy đến bao giờ? Tôi lại cầm lên những quyển sách của Phạm Công Thiện. Đọc lại ông, tôi lau nước mắt. Tôi cầm lấy bút, bắt đầu viết lại... (...)
 
[TƯỞNG NIỆM PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)] ... Nhà thơ Trần Hữu Dũng từ Sài Gòn vừa gửi cho Tiền Vệ một bài phỏng vấn Phạm Công Thiện do Bùi Vị Xuyên thực hiện theo lời yêu cầu của tạp chí VĂN. Trong cả một đời chữ nghĩa của Phạm Công Thiện, có lẽ đây là bài phỏng vấn duy nhất, đăng trên tạp chí VĂN số tháng 9 năm 1969, từ trang 79 đến trang 98... (...)

 

 

------------------

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021