thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Câu chuyện về thánh tông đồ Pedro ở châu Mỹ
 
Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn

 

 

EDUARDO GALEANO

(1940~)

 

Eduardo Galeano (1940~) nhà văn Uruguay, là một trong vài cây bút Mỹ La-tinh nổi tiếng nhất trong thế giới văn chương đương đại. Ông còn là nhà phê bình, sử gia và ký giả. Những tác phẩm đặc sắc của ông, như Memoria del fuego [1982-1986, Ký ức của lửa] Las venas abiertas de América Latina [1971, Những mạch máu mở của Mỹ La-tinh], đã được dịch ra hơn 20 ngoại ngữ. Nhiều tác phẩm của Galeano hầu như vượt khỏi lối phân định thể loại văn học thông thường, vì đó là một kết hợp của ký sự, hư cấu, bình luận chính trị, tài liệu báo chí và lịch sử.
 
14 tuổi, Galeano bán bức biếm hoạ chính trị đầu tay cho tuần báo El Sol. 16 tuổi, ông xuất bản bài tiểu luận đầu tay, rồi bỏ học, và bắt đầu làm nhiều việc khác nhau để mưu sinh. 20 tuổi, ông trở thành ký giả, rồi làm tổng biên tập cho tờ Marcha , một tuần báo gây ảnh hưởng lớn về văn hoá và chính trị, với sự cộng tác của những tên tuổi quan trọng như Mario Vargas Llosa, Mario Benedetti, Manuel Maldonado Denis và Roberto Fernández Retamar. Rồi ông biên tập cho nhật báo Épocha và làm tổng biên tập của University Press (1965-1973). Cuốn Las venas abiertas de América Latina [1971, Những mạch máu mở của Mỹ La-tinh] làm Galeano trở thành một trong những tác giả được đọc nhiều nhất ở Mỹ La-tinh. Sau vụ đảo chính năm 1973, ông bị bỏ tù và trục xuất khỏi Uruguay. Sang Argentina, ông thành lập và làm tổng biên tập tạp chí văn hoá Crisis.
 
Năm 1975, Galeano đoạt giải Casa de las Américas cho cuốn tiểu thuyết La cancion de nosotros [1975, Bài hát của chúng ta]. Sau vụ đảo chính ở Argentina năm 1976, tên tuổi ông nằm trong danh sách những người bị tử hình, nên ông chạy sang Tây-ban-nha, sống ẩn dật trên vùng bờ biển Catalan và khởi sự viết Memoria del fuego [1982-1986, Ký ức của lửa], một kiệt tác gồm ba tập (1. Los nacimientos [Khai sinh]; 2. Las caras y las máscaras [Những chân dung và mặt nạ]; 3. El siglo del viento [Thế kỷ của gió]) được giới phê bình so sánh với những kiệt tác của John Dos Passos và Gabriel García Márquez. Năm 1978, ông lại một lần nữa đoạt giải Casa de las Américas cho cuốn tự truyện Días y noches de amor y de guerra [1978, Ngày và đêm của tình yêu và chiến tranh].
 
Galeano trở về quê hương Montevideo vào đầu năm 1985, và tiếp tục sáng tác và xuất bản liên tục rất nhiều cho đến hôm nay. Ngoài hai giải thưởng Casa de las Américas (1975, 1978), ông còn được trao các giải thưởng quan trọng khác như: American Book Award (1989), và Cultural Freedom Award (1999, Lannan Foundation).
 
Truyện ngắn dưới đây, “Historia del apóstol san Pedro en tierras de América”, nằm trong tập Las Palabras Andantes, với phần minh hoạ bằng tranh khắc gỗ của hoạ sĩ Jose Francisco Borges (México: Siglo XXI Editores, S.A. de C.V., 1994).

 

____________

 

CÂU CHUYỆN VỀ THÁNH TÔNG ĐỒ PEDRO[*] Ở CHÂU MỸ

 

 

Tên cướp Firmino chờ đợi, tựa người trên cây súng, trong lúc những người đạo hạnh đang cắm cúi bước lên trời mà không ai chào hỏi hắn một lời.

“Cuộc sống thế này thì chẳng ra cái trò gì cả,” kẻ đã chết nói.

Firmino không muốn đứng bên lề Thiên Đàng suốt cả một vĩnh cửu mà chẳng có ai để chuyện trò, trong khi hắn còn nghe tiếng cười của mụ vợ từ chốn trần thế văng vẳng lên. Người chiến binh già nua của sa mạc đáng được hưởng một điều gì khá hơn là cái góc lạnh cóng đáng sỉ nhục này. Hoả ngục vốn mang tiếng xấu, người ta nói hoả ngục là một tên gọi khác của trần thế, nhưng dưới chốn đó thì cửa luôn rộng mở và không khí ấm áp như ở nhà.

Tên cướp quyết định dứt khoát. Thế nhưng lúc hắn sắp nhảy một cú bất phục phản vào cái chảo dầu mênh mông nơi những kẻ có tội đang bị chiên xèo xèo, thì một phép lạ chợt xảy ra.

Phép lạ, ấy tức là những song sắt màu trắng chợt hé mở và một bộ râu bạc thò ra, rồi đến một cái đầu hói. Thánh Pedro bước ra khỏi Thiên Đàng. Vị thánh tông đồ đang tìm một chỗ tốt để quan sát trần thế, vì ở bên trong cổng thì không thể thấy gì cả.

Vị giữ cổng của Chúa Trời bước vài bước trên khối không khí vững chắc và, ngồi thụp xuống, ngài bắt đầu thổi những đám mây. Một xâu chìa khoá to tướng treo lủng lẳng nơi dây thắt lưng của ngài.

Firmino lẻn ra sau lưng ngài và, với những ngón tay êm như lụa, hắn nẫng nhẹ xâu chìa khoá, mở cổng, rồi rón rén bước vào vương quốc của những người chân chính. Khi bước vào bên trong, hắn vứt xâu chìa khoá.

Thánh Pedro, đang cúi nhìn xuống trần thế, chẳng hề hay biết.

 

Vị hoàng tử của các thánh tông đồ trầm tư mặc tưởng về cái khối đất lấp lánh đang trôi trong khoảng không. Ngài nhìn nó và thở dài.

Ngài đang lắng nghe một tiếng nói yếu ớt gọi ngài từ chốn xa xôi ấy. Nhưng ngài biết rõ rằng ngài không được phép trở về mặt đất. Chúa Trời không để cho ngài rời khỏi Thiên Đàng. Chúa Trời cũng không cho phép những người đánh cá của Biển Galilea[**] và ngay cả con ruột là Jesus trở về trần thế. Khi họ còn ở trên mặt đất, họ đã bị đánh đập và xua đuổi, họ đã bị treo lên những cây thập giá, họ đã bị đâm bằng những mũi dáo và để cho đổ máu. Hai ngàn năm đã trôi qua, nhưng Chúa Trời vẫn không quên điều đó.

 

Cái nhìn của Thánh Pedro lướt qua những biển cả, sa mạc và núi đồi, cho đến khi dừng lại ở một thung lũng nhỏ bé giữa những đỉnh đá cao vút của rặng Andes. Cái nhìn của ngài dõi xuyên qua màn đêm trên thị trấn Chimpawaylla.

Trong ngôi nhà thờ ở Chimpawaylla, có những bóng đen rung rinh dưới ánh nến.

Trên bệ thờ, cha xứ Benito đang đứng đợi người nữ tu Gloria trở về.

Cha xứ Benito mặc một tấm áo thụng mà hắn lấy trộm, và trên đầu hắn toả ra một vầng hào quang óng ánh chẳng phải của hắn.

Lòng dâng tràn một niềm giận dữ hay ganh tị, Thánh Pedro nguyền rủa những gì ngài chứng kiến.

 

 

Người nữ tu Gloria mới đến thị trấn này, còn cha xứ Benito là người vẫn ở đây xưa nay. Hắn đã sống cả đời hắn ở đây: trong phòng xưng tội này, hắn đã khoái trá lắng nghe những tội lỗi của người khác; trên bục chủ tế này, hắn đã hăm doạ những thổ dân da đỏ bằng những cơn mưa đá và hạn hán và những hình phạt thiêng liêng khác.

 

Ngày đầu tiên người nữ tu Gloria đến đây, hành trang của nàng chỉ vỏn vẹn có chiếc nhẫn của mẹ nàng trên ngón tay của nàng.

Lúc mẹ nàng hấp hối trên giường bệnh, bà đã đặt chiếc nhẫn của bà vào bàn tay của chồng bà. Và với hơi thở cuối cùng, bà thốt ra lời yêu cầu tối hậu rằng cha của Gloria phải thề sẽ không bao giờ ngủ với một người đàn bà nào khác trừ khi ngón tay người ấy mang vừa khít chiếc nhẫn này.

Vài ngày sau, vì tò mò hay vì đùa chơi, Gloria đã mang thử chiếc nhẫn vào ngón tay và không bao giờ cởi nó ra được nữa.

Gloria đành chạy trốn khỏi nhà mình và số phận mình. Và nàng trở thành một người nữ tu.

Vừa khoác áo dòng, nàng đã được thuyên chuyển về thị trấn Chimpawaylla.

Nàng đã đi bộ qua bao nhiêu rừng núi. Nàng đã đến nhà thờ này vào lúc bình minh, sau một hành trình dài dằng dặc, với tấm áo choàng không một vẩn bụi và gương mặt không một nét mệt nhọc.

Cô dâu mới của Chúa gõ cửa hết sức nhẹ nhàng, nhưng chỉ một thoáng chạm khẽ của ngón tay nàng cũng đủ làm cho Benito nhảy ra khỏi giường.

Hắn mở cửa và trông thấy nàng: Gloria với đôi mắt sợ sệt và hương thơm của một cơn mưa mới.

Kể từ hôm đó, Benito không thể nằm ngủ mà không mơ thấy nàng.

 

 

Người nữ tu Gloria đã quét dọn, lau chùi, giặt giũ và cạo rửa liền tay, chiến đấu với những lớp rêu phong và bụi bặm bám dày cả ngôi nhà thờ hàng thế kỷ. Giờ đây, những bộ y phục của các vị thánh toả ra mùi của ánh mặt trời.

Gloria đã lau rửa tượng Thánh Pedro vài lần, và lần nào nàng cũng ôm lấy bàn chân của ngài, rồi quỳ xuống, cầu xin ngài giúp cho ngón tay ô uế của nàng được giải thoát khỏi chiếc nhẫn oan nghiệt.

 

Sáng hôm nay, Benito thông báo cho nàng biết rằng vị thánh tông đồ sắp đến thăm viếng: “Khi đêm xuống, Thánh Pedro sẽ nói chuyện với con.”

Từ giây phút đó, Gloria không thể ngồi yên. Nàng đi lang thang suốt cả ngày quanh thị trấn, tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn. Ngây ngất trong niềm vui, nàng không thể nhận ra những lời cảnh báo. Nàng đã không lắng nghe tiếng chim paca-paca huýt lên những điềm xấu từ ngọn cây liễu, hay tiếng vịt kêu vang lời răn đe từ những dòng nước trên mặt hồ.

Trong lúc đó, Benito cởi y phục của bức tượng Thánh Pedro và bưng giấu ngài trên gác lửng. Hắn mặc áo thụng của ngài vào. Rồi hắn cạo đầu và mang vào một bộ râu làm bằng lông cừu trắng. Hắn trèo lên trên bệ thờ. Và hắn đứng yên nơi đó, bên phải cây thánh giá, bất động, chờ đợi.

 

 

Đêm xuống. Và cuối cùng, khi con chiên xinh đẹp nhất của Chúa đến gần, run rẩy, thì Thánh Pedro giơ hai cánh tay lên và nói thật dịu dàng, gần như thì thầm: “Đức Chúa Trời Toàn Năng đã ra lệnh cho ta ngủ bên cạnh con và cởi chiếc nhẫn ra cho con.”

Gloria ngất xỉu.

Nàng hồi tỉnh và cảm thấy có những ngón tay mơn trớn vầng trán nàng và ve vuốt mái tóc nàng. Tấm khăn choàng đầu màu trắng sút ra và rơi xuống.

“Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải trần truồng, cả thể xác lẫn linh hồn,” Thánh Pedro thì thầm.

“Xin tuân theo ý Chúa.”

 

 

Và như thế con gà trống cất tiếng gáy lúc nửa đêm.

Và trên đỉnh trời cao xa tắp kia, một Thánh Pedro khác lấy hai tay che mắt mình lại.

Sau đó, ngài cố gắng đứng dậy. Lưng ngài kêu răng rắc. Ngài cảm thấy xây xẩm. Miệng ngài đầy những từ ngữ bị cấm đoán.

Lưng vẫn còn lom khom, vị thánh tông đồ sờ vào phía hông đau nhói và, lúc ấy, ngài mới phát hiện rằng ngài không còn xâu chìa khoá cổng để trở vào vương quốc của Thiên Đàng.

 

 

_________________________

Chú thích của người dịch:

[*]Apóstol san Pedro (Thánh tông đồ Pedro): Trong tiếng Việt, ta thường gọi là Thánh tông đồ Phêrô.

[**]Lago de Galilea (Biển hồ Galilea): Trong tiếng Việt, ta thường gọi là Biển Galilê. Để tìm hiểu về sự tích những người đánh cá ở Biển Galilê theo chúa Giê-su, mời độc giả xem kinh thánh Mathiơ 4:18-22.

 

 

------------
Dịch từ nguyên tác “Historia del apóstol san Pedro en tierras de América”, trong Eduardo Galeano, Las Palabras Andantes (México: Siglo XXI Editores, S.A. de C.V., 1994), 45-51.
 

 

 

Những tác phẩm của Eduardo Galeano đã đăng trên Tiền Vệ:

Những người hùng  (truyện / tuỳ bút) 
Từ đàng xa, các ông chủ tịch nước và các ông tướng ra lệnh giết người. Họ sẽ không đánh trận, trừ khi đánh trận với vợ. Họ sẽ không đổ máu, trừ khi họ tự làm xước da vì cạo râu... Họ sẽ không bị làm điếc tai bởi những quả bom nổ tung khiến bao nhiêu con người và thành phố tan nát, mà họ chỉ lùng bùng lỗ tai trong tiếng pháo hoa mừng chiến thắng. Họ sẽ không bị mất ngủ vì những con mắt của những nạn nhân của họ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Người đàn bà gương mẫu  (truyện / tuỳ bút) 
... Khi bà trở về từ nhà người chị, bà thấy ông chồng nằm trên sàn nhà, run rẩy, thở hổn hển, mắt lệch tròng, mặt đỏ như trái cà chua. Bà tiếp tục bước vào nhà bếp, và nấu một bữa tiệc thịnh soạn gồm món mực tươi và cá mòi tuyết à la Basque, với một toà tháp trái cây và kem lạnh, kèm thêm chai rượu vang lâu năm mà bà đã giấu kỹ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Ông thú nhận đã nói chuyện với bọn gián điệp nước ngoài. Ông thú nhận đã liên lạc với phe Trotsky trong những chuyến du lịch ngoài nước. Ông thú nhận đã có biết một âm mưu ám sát Đồng chí Stalin mà ông không đi trình báo với công an. Ông thú nhận đã muốn chạy theo những kẻ thù của tổ quốc. Ông thú nhận là tất cả những lời thú nhận của ông đều sai sự thật. Người ta bắn chết ông vào ngay đêm hôm đó... [Bản dịch của Phan Quỳnh Trâm] (...)
 
Nhật ký lưu vong  (truyện / tuỳ bút) 
... Chế độ độc tài là một sự ô nhục biến thành tập quán, một guồng máy làm cho bạn điếc và câm, không còn biết nghe, không còn biết nói, và mù loà trước những gì bị cấm nhìn thấy... Guồng máy dạy rằng bất cứ ai chống lại nó đều là kẻ thù của tổ quốc. Chống lại sự bất công là một tội ác đối với tổ quốc. Ta là tổ quốc, guồng máy nói. Trại tập trung này là tổ quốc: đống rác thối tha này, miền đất hoang phế này.... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Sự im lặng | Những vết chân | Biển  (truyện / tuỳ bút) 
... Những vết chân ấy cho thấy nàng Eva và chàng Adam này đã cùng bước đi bên nhau; nhưng tại một điểm nào đó, nàng đã dừng lại, xoay về hướng khác, và đi một quãng ngắn trên bước chân của riêng mình. Rồi nàng quay trở lại với nẻo đường mà họ đã chung bước... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Lá thư | Những lá thư  (truyện / tuỳ bút) 
Enrique Buenaventura đang uống rượu rum trong một quán ở Cali thì có một chàng lạ mặt bước đến bàn của ông. Chàng ấy tự giới thiệu là một anh thợ nề, ngỏ lời xin lỗi về sự khiếm nhã và đường đột của mình, rồi nói: “Tôi cần ông viết giùm cho tôi một lá thư. Một lá thư tình.” “Tôi ư?” “Người ta bảo tôi rằng ông làm được điều đó.” ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Nhà văn và chính trị  (tiểu luận / nhận định) 
... Tôi không nghĩ nhà văn nên có ý đồ chính trị. Tôi nghĩ nhà văn nên thành thật, thành thật trong những gì họ đang làm. Họ không nên bán chính họ. Họ không nên để cho chính họ bị mua. Họ nên tự kính trọng bản thân họ. Họ nên gìn giữ tư cách của họ, như những con người và như những nhà văn chuyên nghiệp. Họ nên nói những gì họ muốn nói. Chữ nghĩa phải trung thực, và chữ nghĩa phải đến từ trái tim, nếu không thì chữ nghĩa chỉ là giả tạo. Khi bạn ban ra mệnh lệnh chính trị, thì đó là một thảm hoạ. Cái gọi là “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” chính là hậu quả. Nó cũng thê thảm như “chủ nghĩa hiện thực tư bản chủ nghĩa” vậy... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Một người ở thị trấn Neguá, trên vùng ven biển Colombia, đã leo được lên trời. Khi trở về, ông mô tả chuyến đi. Ông kể lại rằng từ trên cao ông đã trầm tư về đời sống con người như thế nào . Ông nói chúng ta là một mặt biển đầy những ngọn lửa li ti... | ... Julio sắp bấm được tấm ảnh đẹp nhất của đời mình, nhưng ngón tay của anh từ chối. Julio thử bấm lại, rồi bấm lại, nhưng ngón tay của anh vẫn không cử động. Rồi anh hạ máy xuống, không thể bấm được một tấm ảnh nào, và lặng lẽ ra đi... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Ngọn gió báo trước cho nó những cơn bão và đưa nó vào hải ngạn. Nó không bao giờ đánh mất hay quên nơi sinh của nó; nhưng cả đất và biển đều không thuộc về nó... | ... Cát, bị gió cuốn, không bao giờ nằm yên. Ở chốn mông mênh nóng bỏng ấy, ai cũng có thể lạc đường. Nhưng những con kiến luôn luôn về tổ bằng con đường ngắn nhất... | ... Thời gian đã trôi qua, và cá hồi không còn như chính chúng ngày xưa. Sinh quán của chúng cũng đã đổi thay... Nhưng suốt hàng triệu năm qua, chúng vẫn tin rằng chúng có thể trở về, và những cuộc du hành khứ hồi ấy không phải là một điều dối trá... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Ánh sáng reo lên, không khí nhảy múa. Mỗi con người là một màu sắc đang bước đi. Những thân thể màu đen trải xuống đất những cái bóng màu lá cây và xanh, và cơn gió heo may mang quá nhiều sắc độ đến nỗi cầu vồng phải giấu mặt vì e rằng mình trông ngốc nghếch... | ... Những chiếc lông đỏ của chim vẹt đuôi dài khiến cho trời mưa xuống, những chiếc lông vàng của nó mời gọi những tin lành. Và những chiếc lông xám buồn bã của con đà điểu mang niềm say mê ngây ngất vào khúc hát của con người... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Xem tranh Miró  (truyện / tuỳ bút) 
... Và ông trông thấy. Ông thấy những màu sắc nổ tung, một trái cà chua có ria mép, một cái nĩa đang nhảy múa, một con chim trông như người đàn bà trần truồng, những bầu trời đầy những con mắt, những khuôn mặt đầy những ngôi sao... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Từ những thân cây lăn xuống sườn đồi, chúng ta đã học về những cái bánh xe. Từ những thân cây trôi nổi trên nước, chúng ta đã học về thuyền bè. Từ gió, chúng ta đã học về những cánh buồm. Bằng cách nào chúng ta học những trò ác độc? Từ đâu chúng ta đã học làm nhơ nhớp trái đất và hành hạ con người? ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Mặt trời | Đêm | Mặt trăng  (truyện / tuỳ bút) 
... Trăng khuyết mang thai quả đất, để cho những thân cây bị đốn ngã có thể tiếp tục sống trong rừng. Trăng tròn khiến những kẻ ngớ ngẩn, những kẻ mộng mơ, những người đàn bà, và mặt biển lên cơn mê sảng. Trăng xanh lá cây giết chết những mùa hoa trái... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Cây hồi tưởng | Hoa hồi tưởng  (truyện / tuỳ bút) 
... Mỗi người đàn bà đưa một chiếc lá kề vào vành tai mình, vò nhè nhẹ. Và mỗi chiếc lá mở một khung cửa vào ký ức của cây: Một người nghe gió thổi vào tai. Một người khác, cành cây đung đưa khe khẽ. Một người khác, tiếng vỗ của những cánh chim trời. Một người khác, trong tai như có mưa rơi... | ... Khi Alessandra chào giã biệt các bạn của nàng ở sân bay và trở về nhà, nàng thấy những cánh hoa trắng muốt xoè ra từ một bông hoa mới nở... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Bởi vì mụ đàn bà này không bao giờ câm mồm, bởi vì mụ luôn luôn phàn nàn, bởi vì không có một chuyện ngớ ngẩn nhỏ nhặt nào mà mụ không xé cho to ra thành vấn đề, bởi vì gã đã quá mệt nhọc làm việc như một con lừa để cung phụng cho mụ và cả bầy họ hàng của mụ, bởi vì gã phải năn nỉ như một thằng ăn mày mỗi khi lên giường với mụ... | ... Ai mà hiểu thấu cho nỗi lòng chàng? Để yêu mà khỏi chết, chàng đã trói nàng và chạy trốn bữa điểm tâm; và bây giờ thoát chết, chàng nhớ nàng da diết... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Những trò chơi của thời gian  (truyện / tuỳ bút) 
Nghe kể rằng một lần nọ có hai người bạn đang ngắm một bức tranh. Hoạ phẩm ấy, ai vẽ thì ai mà biết, đến từ Trung Hoa. Đó là cảnh một cánh đồng hoa trong mùa gặt... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Hắn không thể nhìn một ánh trăng mà không tính toán về khoảng cách. Hắn không thể nhìn một cái cây mà không tính toán về củi đốt. Hắn không thể nhìn một thực đơn mà không tính toán về giá tiền... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Tôi thốt ra những điều tôi không nói. Tôi sống nhưng tôi không hiện hữu. Và tôi lên một chuyến xe lửa để đi đến một nơi tôi sẽ không đến, trong một đất nước đã bị lưu đày ra khỏi chính tôi... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Câu chuyện của kẻ khác  (truyện / tuỳ bút) 
Bạn dọn bữa ăn sáng, như mọi ngày. Như mọi ngày, bạn đưa con đến trường. Như mọi ngày. Thế rồi, bạn trông thấy hắn... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Đêm | Những tiếng gọi  (truyện / tuỳ bút) 
Tôi không ngủ được. Có một người đàn bà nằm chặn giữa hai mí mắt của tôi. Chắc hẳn tôi đã bảo nàng đi ra nếu tôi nói được. Nhưng có một người đàn bà nằm chặn trong cổ họng của tôi... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Những kẻ-không-là-ai-cả  (truyện / tuỳ bút) 
... Những kẻ-không-là-ai-cả: không là con cháu của ai cả, không là sở hữu chủ của cái gì cả. Những kẻ-không-là-ai-cả: những kẻ không nhân thân, những kẻ không tiểu sử, chạy như những con thỏ, chết giữa dòng đời, bị bạc đãi bằng mọi cách... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Hệ thống / 1, 2 & 3  (truyện / tuỳ bút) 
Các nhà chức trách không thi hành chức trách. Các nhà chính trị phát ngôn nhưng không nói bất kỳ điều gì... | Đây là thời của loài kỳ nhông: không ai dạy bảo chúng ta về lòng nhân đạo nhiều bằng những con thú ấy... | Nếu anh không lanh lẹ, anh sẽ chết. Anh bị bắt buộc phải làm một kẻ lừa đảo hay một kẻ bị lừa đảo, một kẻ láo khoét hay nạn nhân của sự láo khoét... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Họ cho nó một vỏ sò: “Với nó, con sẽ học yêu dòng nước.” Họ mở một cái lồng và thả một con chim bay đi: “Với nó, con sẽ học yêu không khí.” Họ cho nó một đoá hoa phong lữ: “Với nó, con sẽ học yêu mặt đất.” ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Khung cửa sổ mở vào ký ức [I-V]  (truyện / tuỳ bút) 
Ánh sáng của những ngôi sao chết đang du hành, và trong đường bay rực rỡ của chúng, ta thấy chúng còn sống. Cây đàn ghi-ta, vẫn còn nhớ kẻ đồng hành, ngân vang không cần bàn tay khảy. Tiếng hát tiếp tục cuộc du hành, bỏ cái miệng lại phía sau... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Nghệ thuật và hiện thực / 1 & 2  (truyện / tuỳ bút) 
Eraclio Zepeda đóng vai Tướng Pancho Villa trong phim México nổi loạn, do Paul Leduc đạo diễn, và ông diễn quá hay đến nỗi từ đó trở đi, một số người nghĩ rằng Eraclio Zepeda là cái tên mà Tướng Pancho Villa dùng khi ngài làm việc trong những cuốn phim... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Câu chuyện về bảy kỳ tích  (truyện / tuỳ bút) 
Từ cửa sông Amazon đến vịnh Các Thánh, chưa bao giờ có một người đàn bà khó tính như thế và một người đàn ông thần kỳ như thế. Để lấy lòng nàng María, chàng José đã thực hiện bảy kỳ tích... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Câu chuyện về cái bóng  (truyện / tuỳ bút) 
Cái vị đầu tiên hắn còn nhớ là một củ cà-rốt. Cái mùi đầu tiên, một quả chanh cắt đôi. Hắn còn nhớ hắn đã bật khóc khi phát hiện sự xa cách. Và hắn còn nhớ buổi sáng hắn đã phát hiện cái bóng của hắn... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Khung cửa sổ mở vào chữ [I-VIII]  (truyện / tuỳ bút) 
Những người kể chuyện, những người hát chuyện, chỉ kể những câu chuyện của họ trong khi tuyết rơi. Làm như vậy là đúng cách. Thổ dân da đỏ Bắc Mỹ rất cẩn thận về việc kể chuyện. Họ nói rằng trong khi những câu chuyện được kể, cây cối quên mọc và chim quên mớm mồi cho con... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
“Những kẻ thật sự biết chơi đàn acordión có thể làm cho nó nói,” Don Alejo Durán thích phát ngôn như thế. “Đối với họ, người và chiếc đàn là một.” ... | Khi một con dao cắm ngập vào thân thể Papá Montero, đêm Havana đột nhiên câm nín. Nhưng... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Câu chuyện con chim bị mất một chân  (truyện / tuỳ bút) 
... tại sao ngài lại tạo ra con người để con người mài lưỡi dao để lưỡi dao giết con bò để con bò uống nước để nước dập tắt lửa để lửa đốt cái que để cái que đánh con chó để con chó rượt con mèo để con mèo ăn con chuột để con chuột khoét bức tường để bức tường chặn ngọn gió để ngọn gió thổi sương mù để sương mù che mặt trời để mặt trời làm tan tuyết để tuyết làm què chân tôi... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Và Ngài giáng thế. Ngài đến bằng cách đu vào một chiếc ô mở bung ra. Một ngọn gió bất ngờ thổi khiến ngài bay lơ lửng một hồi lâu trên đầu đám người chen chúc. Hai tay níu lấy cán ô, con trai của Chúa Trời không thể ngăn ngọn gió thổi tốc tấm áo chùng làm lộ ra cái khoảng nhục thể phàm trần của ngài... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Những nghịch lý  (truyện / tuỳ bút) 
Nếu sự mâu thuẫn là buồng phổi của lịch sử, thì nghịch lý, theo tôi nghĩ, chắc hẳn phải là tấm gương soi mà lịch sử dùng để trêu chọc chúng ta... Ngay cả con trai của Chúa Trời cũng không thoát khỏi nghịch lý... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Đàn bà? Một nòi thấp hèn như mọi da đen, như lũ người nghèo khổ và bọn điên khùng. Như trẻ nít, họ không thích hợp với sự tự do. Họ mang số phận phải khóc lóc và gào thét, nói xấu hàng xóm láng giềng, và thay đổi ý nghĩ và kiểu tóc xoành xoạch hàng ngày. Trong giường và trong bếp, đôi khi họ cho ta khoái lạc. Ở những nơi khác thì họ chẳng gây nên cảm giác gì ngoài sự lợm giọng... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Định nghĩa Nghệ Thuật  (truyện / tuỳ bút) 
“Tôi chỉ biết mỗi một điều: nghệ thuật là nghệ thuật, nếu không, nó là cứt.” ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Nhiệm vụ của người đọc / 1 & 2  (truyện / tuỳ bút) 
... Lucía chưa bao giờ đọc lại cuốn sách ấy. Chị không còn nhận ra nó nữa. Nó đã âm thầm mọc lên quá lớn trong chị, đến nỗi giờ đây nó không còn là cuốn sách, mà trở thành một điều gì khác: giờ đây nó là sức sống của chị... | ... Đại uý Castañón, anh hùng của đạo quân chiến thắng, ngồi chong mắt suốt đêm, chìm đắm vào cuốn sách, đọc đi đọc lại tác phẩm của César Vallejo, nhà thơ của phe bại trận... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Ngay đêm đầu tiên, con thằn lằn nhảy chồm lên, đè vợ nó xuống và ăn thịt nàng. Khi mặt trời lên, trên chiếc giường hợp cẩn chỉ có một kẻ goá vợ nằm ngủ, chung quanh đầy những mảnh xương vụn. Thế rồi con thằn lằn đòi một cô vợ khác, và một đám cưới khác và một cuộc ăn thịt khác lại xảy ra... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021