|
Zagajewski, Adam
|
tiểu sử &
tác phẩm
|
|
ADAM ZAGAJEWSKI là một nhà thơ, tiểu thuyết gia, người viết tiểu luận và nhà phê bình văn nghệ Ba-lan, (cựu) giảng sư đại học Cracovie. Sinh tại Lwów ngày 21.6.1945. Học triết lý và tâm lý ở đại học Jagelonne, Cracovie. Khởi sự viết trên tờ Zycie Literackie vào năm 1967. Thuộc nhóm Teraz (Cracovie), ông nổi tiếng như một nhà thơ hàng đầu thuộc “Thế hệ 68” hay “Đợt sóng mới” (Nowa fala) Ba-lan. Đã tham gia nhiều hành động phản kháng và không được xuất bản chính thức ở Ba-lan. Từ 1976, tên ông bị ghi vào sổ đen của những nhà văn có hoạt động «khuynh đảo». Zagajewski ở Tây Bá-linh hai năm (1979-1981) do lời mời của Berliner Kunstler-programm, rồi trở về Ba-lan vài tháng trước khi có cuộc đảo chánh ngày 13.12.1981. Từ 1982, ông sống tại Paris và thường qua Hoa-kỳ giảng dạy tại nhiều trường đại học. Tác phẩm đầu tiên của ông là tập thơ: Komunikat (Thông cáo, 1972). Kế đó là một tập tiểu luận văn chương viết chung với Julian Kornhauser, một thứ «tuyên ngôn» của thế hệ trẻ đòi hỏi một nền văn chương «điều độ» hơn, thực tế hơn, tỉnh táo hơn. Tiếp theo là một số thi phẩm như Skepy miesne (Cửa hàng thịt, 1975); Lá thư (1978); List - oda do Wielosci (Cracovie, 1982); Jechac do Lwowa (Luân-đôn, 1985); Ziemia ognista (1994); Pragnienie (Cracow: a5, 1999),... Zagajewski còn là tác giả cuốn tiểu thuyết Cieplo, Zimmo (Nóng, lạnh). Thơ, tiểu thuyết và các tiểu luận của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng Tây Âu,... Adam Zagajewski đã được tặng Giải thưởng Quốc tế Neustadt về Văn chương năm 2004. Đây là một giải thưởng văn chương quốc tế quan trọng do Đại học Oklahoma và tập san World Literature Today (Văn chương Thế giới Hôm nay) tặng hai năm một lần. Giải này thường báo hiệu Giải Nobel Văn chương nên hay được gọi là “Giải Nobel nhỏ”. Zagajewski là người Ba-lan thứ nhì (sau Czesław Miłosz, 1978) lãnh giải Neustadt lần thứ mười tám này. Ông đã được ban “giám khảo” quốc tế lựa trong tám người được đề nghị lãnh giải trong đó có cả Mario Vargas Llosa, José Saramago và J.M. Coetzee,... Một trong các vị trong ban tuyển lựa nói rằng Zagajewski “tiếp tục những truyền thống tốt đẹp nhất của thơ Ba-lan hậu chiến”, đồng thời cũng “đã tìm ra tiếng nói riêng biệt của chính ông, không thể lẫn với bất cứ một ai trong các vị tiền nhiệm thời danh của ông”. Trong số các vinh dự khác được dành cho Zagajewski, người ta còn nhận thấy Giải Kurt Tucholsky; Giải thưởng Tự do và “Guggenheim Fellowship.” Kể từ 1988, ông đã trở thành Giáo sư thỉnh giảng trong Chương trình dạy sáng tác tại Đại học Houston. Ông cũng là người đồng-biên tập của tạp chí văn chương Zeszyty literackie, xuất bản tại Paris. (Diễm Châu biên soạn) |
tác phẩm
|
Bi ca cho kỷ nguyên cộng sản
(thơ)
Mặt trời châu Mỹ | Ngôi sao | Bảo vệ thơ, vân vân... | Đọc Milosz | Nhạc nghe trong xe
(thơ)
Ba lịch sử | Ích kỷ | Tôi đã giết Hitler
(truyện / tuỳ bút)
Hai ý tưởng về thơ
(tiểu luận / nhận định)
Khẩu hiệu | Gió đêm | Chiều tháng chín trong một doanh trại bỏ hoang | Chuyện trò với một người Pháp | Tự do
(thơ)
Ba ý tưởng về văn chương
(tiểu luận / nhận định)
Người gác cửa | Sát nhân
(truyện / tuỳ bút)
Tù chung thân | Trong Bách khoa Từ điển... | Ngày 6 tháng Bảy, 1980 | Ba giọng nói | Tuổi mười bảy
(thơ)
"Tôi muốn là ai" và những bài thơ khác
(thơ)
|