|
Bảy bài thơ
|
|
(bản dịch của Nguyễn Đăng Thường)
Charles Simic sinh năm 1938 ở Belgrade (Yugoslavia) dưới thời phát xít chiếm đóng, di tản sang Mỹ năm 1954 trong tuổi thiếu niên. Năm 1971 xuất hiện tập thơ đầu tiên của ông và suốt ba thập kỷ sau ông đoạt nhiều giải thưởng lớn như Pulitzer Prize về thơ ca (The World Doesn't End, 1989) và PEN International Award về dịch thuật (Devil's Lunch, thơ Aleksander Ristovic). Ông có một cái nhìn độc đáo về thế giới, trong đó niềm vui hài hước cầm tay sánh bước với những vấn đề tinh thần và triết lý thảm đạm hơn. Thơ Charles Simic vừa thực tế vừa siêu thực, vừa thị thành vừa kỳ ảo. Thi phẩm đã xuất bản: Dismantling the Silence, 1971; Unending Blues, 1986; A Wedding in Hell, 1994; Walking the Black Cat, 1996; Jackstraw, 1999; The Voice at 3 A.M., 2003... Tiểu luận và hồi ký: The Metaphysician in the Dark, 2003; và A Fly in the Soup, 2003.
Hàng thịt Có khi đi muộn trong đêm
Tôi ngừng bước trước một tiệm thịt đóng cửa.
Bên trong trơ trọi một ánh đèn
Tựa như ánh đèn soi gã tù nhân lúc hắn đào hang.
Một cái tạp dề mắc vào móc:
Máu thấm loang tạo thành tấm bản đồ
Của những lục địa lớn của máu,
Những dòng sông lớn và những trùng dương máu.
Những lưỡi dao ngời sáng như bàn thờ
Trong một ngôi giáo đường thâm u
Nơi người ta đưa thằng khờ và đứa tàn tật tới
Chữa trị.
Có một tấm thớt gỗ nơi mà xương bị đập dập,
Cạo thật sạch - một nhánh sông cạn đáy
Ở đó tôi được cho ăn
Ở đó trong thẳm đêm tôi nghe một tiếng nói.
Con gián Khi gặp một con gián
Tôi không bạo tàn như bạn đâu nhé.
Tôi đứng lại như đã có chào hỏi thân thiện
Giữa đôi bên
Con gián này chẳng phải ai xa lạ.
Chúng tôi đã gặp nhau ở chỗ nọ chỗ kia,
Trong xó bếp lúc nửa khuya,
Và giờ đây trên chiếc gối.
Tôi có thể thấy hai sợi
Tóc đen của mình
Tủa ra trên đầu nó,
Và biết đâu còn có vật gì khác nữa chăng?
Nó mang những giấy tờ giả -
Đừng hỏi tại sao tôi biết nhá.
Những giấy tờ giả mạo, thưa vâng ạ,
Có dấu lăn ngón cái nhớp nhúa của tôi.
Dưa hấu Phật xanh
Trên sạp hàng.
Chúng tôi ăn nụ cười
Và nhả răng.
Cần hỗ trợ Chúng cần một lưỡi dao
Tôi xông xáo chạy tới
Chúng cần một con cừu
Tôi xưng mình là con cừu
Nghìn lần thực tình xin lỗi
Hình như chúng cần thuốc giết chuột
Chúng cần một người chăn giữ
Đàn goá phụ áo đen của chúng
May thay tôi có mang theo các thư
Gửi gắm
Và tờ giấy khai tử
Có chữ ký được thị thực
Nhưng chúng lại đổi ý
Bây giờ chúng vòi chim và một tí xuân
Chúng cần một phụ nữ
Rửa xà bông và hôn dái chúng
Đó là một trong các sở trường của tôi
(Tôi cam kết với chúng)
Líu lo huýt sáo như một cái chuồng chim
Chìa mông ra và banh đít
Ghi Một con chuột chạy lên sân khấu
Trong buổi diễn vở
Giáng Sinh ở trường.
Mary buông một tiếng rống
Và để rớt Chúa hài đồng
Trên chân Joseph.
Ba vị Đạo sĩ thì như
Đông lạnh
Dưới lớp y phục sặc sỡ của họ.
Bạn có thể nghe được tiếng kim rơi
Trong lúc con chuột nhìn vào máng cỏ
Một chốc
Trước khi lui vào hậu trường
Ở đó nó bị một kẻ nào đó nện cho
Chí tử
Một lần, rồi thêm hai lần nữa
Bởi một vật gì rất cứng.
Vận tải Trong cái chảo mỡ
Đặt trên hỏa lò
Tôi nhìn thấy người yêu
Và mình đang khỏa thân.
Củ hành xắt nhỏ
Rơi trên đầu chúng tôi
Khiến chúng tôi bị chảy nước mắt.
Chẳng khác gì một cuộc diễu hành,
Tôi bảo nàng, những bông hoa giấy
Khi có một gã
Vươn tới trăng.
"Phương tiện chuyên chở,"
Nàng đáp rất mơ hồ
Trong lúc chúng tôi chiên.
"Phương tiện chuyên chở!"
Tiếng Nói lúc 3 giờ sáng Ai phóng những tiếng cười đóng hộp
Vào màn kịch lúc tôi bị đóng đinh?
Nguyễn Đăng Thường dịch từ nguyên tác tiếng Anh,
trong Charles Simic, Selected Poems 1963-2003 (London: Faber and Faber, 2004).
|