thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
THANG MÁY SÀI GÒN [chương 11-13]

 

 

CHƯƠNG 11

Sài Gòn

 

Trong căn phòng nơi mẹ ở hai tuần trước khi tai nạn xảy ra, cô đã tìm được cuốn sổ tay ở một chỗ khá bất ngờ: giữa chiếc gối đặt trên đầu giường mẹ. Trước đó, cô đã mất cả tiếng lục lọi mọi ngóc ngách và ngăn tủ nhưng sờ tới chỗ nào cũng thấy trống trơn. Căn phòng ngay khi mẹ mất đã được bà giúp việc dọn dẹp, rồi đem đốt hết quần áo và vật dụng mà mẹ để lại. Căn phòng từ đó bị đóng kín, hẳn là ai cũng sợ bước vào nơi ở của người vừa qua đời. Thế nên, một ngày sau đám tang, cả anh Mai và bà giúp việc đều ngạc nhiên khi cô đòi mượn chìa khóa, rồi vào đó một mình.

Đặt lên bàn cuốn sổ tay của một thời bao cấp, cô vội lật từng trang giấy mủn, và ngạc nhiên khi không tìm thấy một dấu tích nào của mẹ. Thế nhưng càng ngẫm nghĩ, cô càng tin rằng cuốn sổ tay này có một ý nghĩa đặc biệt với mẹ. Phải đặc biệt thế nào, mẹ mới mang từ Hà Nội vào đây, rồi lại cất kỹ trong lớp bông dày của chiếc gối. Cầm cuốn sổ lên, lật đi lật lại, cô phát hiện ra tấm ảnh đen trắng giữa hai lớp bìa. Trên ảnh là một thanh niên da trắng, tóc thẫm, mắt trong. Mặt sau của tấm ảnh có ba dòng viết tay:

Paul Polotski

1954

Số nhà 21 đại lộ Suffren, Paris.

Cô nhận ra nét chữ quen thuộc của mẹ.

Cô không nhớ đã đứng bao lâu ở cửa sổ trước khi nhận thấy đối diện với cô, qua khoảnh sân nhỏ, một đôi trai gái không mảnh vải trên người, đang hì hụi dịch chuyển từ đi văng xuống mặt sàn, trong phòng khách tranh sáng tranh tối. Ngay cạnh đấy một đôi khác có vẻ trẻ trung hơn, nhà nghề hơn, liên tục thay đổi tư thế, trên một chiếc giường rộng mênh mông. Nhìn một lúc thì cô phát hiện ra bà hàng xóm và bạn trai, còn đôi kia là hai diễn viên của dòng phim X.

 

 

CHƯƠNG 12

Paris

 

Thứ Năm. Tám người được dẫn tới một bàn tròn, bàn tròn nằm ngay cạnh cửa sổ tầng hai, còn cửa sổ tầng hai thì trông xuống đường lớn, đường lớn chín giờ tối đã chìm vào im lặng, thi thoảng một chiếc ô tô chạy qua, đèn pha lướt trên vỉa hè ẩm ướt. Một học trò đã gọi điện đặt chỗ từ trước. 7 giờ 15, chuẩn bị chữa bài tập về nhà, ai đó chợt bâng quơ: “Chút nữa đi chén nhé”. Không khí sôi động hẳn. Chủ yếu để bàn xem “chén” ở đâu. Quán này, mấy em bồi bàn màu mỡ nhưng món nem lại khô cằn. Quán kia, gỏi cuốn rất hào phóng tôm nhưng toa lét lại vô cùng tiết kiệm nước. Quán kia nữa, nem màu mỡ, mỗi gỏi cuốn có hẳn hai con tôm, toa lét hào phóng nước, nhưng nhìn mặt lão chủ chỉ muốn cho mấy cái tát…

Lần nào nghe những nhận xét kiểu này, cô đều nghĩ nếu ai có nhu cầu tìm hiểu ẩm thực Việt tại Paris thì nên đến gặp học trò tiếng Việt, còn nếu ai có nhu cầu học tiếng Việt thì cuối cùng cũng chỉ biết mỗi ẩm thực Việt tại Paris.

Nửa tiếng sau cũng quyết định xong, một quán có lẽ quy tụ được cả ba yêu cầu. Thế nhưng khi gọi điện tới thì mới hay cả tuần nay một trăm cái nồi đất bị ách lại ở cảng Le Havre nên đầu bếp không thể phục vụ món gà hấp nồi đất. Thế là lại mất thêm mươi phút nữa tranh luận. Cuối cùng vẫn nhất trí tới quán đó, ăn món này, món này… nhưng phải gọi điện lại để kiểm tra trước rồi mới đặt bàn. Hóa ra cũng ổn. Còn đúng hai mươi phút để sửa bài tập về nhà. Không khí có vẻ chùng xuống. Đầu óc chỉ nghĩ tới mấy món sắp ăn. Bụng sôi sùng sục. Cũng dễ hiểu, giờ học tiếng Việt rơi đúng vào giờ cơm tối.

Cô thở dài, hóa ra kẻ thù nguy hiểm của lớp học tiếng Việt không chỉ là vô tuyến truyền hình Pháp mà còn là các quán cơm Việt. Một lát sau, nhìn cả lớp chăm chú nghiên cứu thực đơn, cô lại thở dài lần nữa: học trò của cô dù sao cũng có nhiều lựa chọn (hàng trăm món ăn Việt cùng với mấy chục kênh vô tuyến truyền hình Pháp), còn cô thì không có lựa chọn nào khác - “bán hàng, dạy học, nghỉ buổi nào trừ lương buổi ấy, nghỉ nửa buổi trừ nửa buổi”, bà Wang đã giao hẹn ngay từ buổi đầu tiên.

8 giờ 30 cả lớp lên đường tới quán. Trừ một người, có lẽ trẻ nhất, tên là Luc mà cô và những học trò khác đều không biết họ là gì. Nói chung, chẳng ai biết chút thông tin nào về nó, và cũng không có ý định biết thì phải. Nó bao giờ cũng chọn góc khuất nhất để ngồi, không trò chuyện, không giơ tay phát biểu ý kiến, không đi ăn chung, không về cùng tàu điện ngầm, không đến chơi nhà người nào ở lớp. Thực ra, thời gian đầu, nó cũng đã thử tham gia các hoạt động tập thể, vì mục đích đến đây của nó có lẽ không phải là học tiếng Việt mà là tìm một chỗ giải khuây, kiểu một câu lạc bộ nho nhỏ, rồi biết được thêm câu tiếng Việt nào thì càng tốt. Đúng thế, nó đã cố tìm cách hòa mình vào đám đông, không ít lần. Nhưng ngay lập tức nó bị gạt ra ngoài. Và điều này thì ai cũng biết.

Nó vừa bước chân vào lớp, người ta đã bụm miệng cười.

Nó bảo hè tới định đi Việt Nam một chuyến, từ Bắc vào Nam, muốn tìm ai đó đồng hành cho vui. Người ta quay sang nhìn nhau ngáp.

Nó khoe mới mua một chiếc khăn đũi để ngày mai tặng sinh nhật một nữ đồng nghiệp cùng phòng, chưa dứt lời đã bị hỏi giật giọng: “U50 hay U60?”

Một học trò lấy chồng, gửi thiếp mời cả lớp, trừ nó. Không hiểu bằng cách nào mà nó biết, nó đòi góp tiền mua quà, nhưng người ta không nhận, bảo chuẩn bị xong đâu đấy rồi, muốn tặng gì đưa thẳng cho cô dâu chú rể. Hôm cưới, tất nhiên không thấy nó đâu: trên bàn tiệc ghi rõ tên từng khách mời.

Tết Việt Nam, nó rụt rè hỏi có tổ chức hội hè gì không, nó biết một cửa hàng bán bánh tét và giò thủ chuyển thẳng từ bên kia sang, theo đường Vietnam Airlines nên không sợ bị ách ở cảng Le Havre. Không ai trả lời.

Ngay tối đó, cả lớp rủ nhau đi ăn quán, người ta bàn phải dứt khoát với “thằng Luc ấy”, không hiểu sao nhìn mặt nó là mất vui.

Từ đấy, nó có vẻ hiểu ra vấn đề. Nó co rúm vào một góc. Cô thấy lạ là nó vẫn tiếp tục đến lớp. Tiếng Hoa mở ra, nó vội vàng đăng ký đi học. Thời gian đầu, nó có vẻ phấn khởi. Nó tới lớp tiếng Việt với vẻ tự tin, vác theo mấy quyển sách giáo khoa tiếng Hoa. Giải lao mười phút, nó mở sách ra làm bài tập, rồi đọc thành tiếng, không hiểu để tranh thủ thời gian hay muốn lòe người khác. Chẳng ai buồn để ý. Những giờ giải lao sau đó, nó ngồi cắn móng tay, mặt cúi gằm xuống đất. Cô chỉ sợ nó sẽ òa lên khóc hoặc bật dậy đánh một ai đó. Nhưng không có chuyện gì xảy ra. Tất cả các buổi học đều thấy nó đến, rất đúng giờ, rồi rón rén chọn góc khuất nhất. Một hôm, tình cờ gặp cô ở bến tàu điện ngầm, giáo viên tiếng Hoa nói: “Thằng Luc ấy chẳng hiểu thế nào, ngày trước giải lao có mười phút mà mở sách giáo khoa tiếng Việt ra làm bài tập, đọc thành tiếng, bây giờ thì ngồi cắn móng tay”. Cô tưởng tượng nó cũng đã thử tham gia các hoạt động tập thể của lớp tiếng Hoa, nhưng ngay lập tức nó bị gạt ra ngoài. Ở đấy, người ta cũng bàn nhau phải dứt khoát với “thằng Luc ấy”, không hiểu sao nhìn mặt nó là mất vui.

Tám người quyết định mỗi người chọn một món rồi ăn chung, thiếu thì gọi tiếp. Ai cũng hồ hởi, đề nghị bồi bàn mang cho một ly rượu đế, nhấp môi một lượt trong lúc chờ đợi. Tinh thần tập thể tỏ ra rất cao. Bồi bàn còn mang cho một đĩa phồng tôm và củ kiệu để nhắm, thấy cô nháy mắt hỏi: “Hà Nội qua hồi nào zdậy?”

Cả bọn nhìn nhau. Một bà thở dài bảo tiếng Việt khó kinh hồn, học mãi mà chỉ nghe được mỗi từ “Hanoi”. Bà này là học trò nghiêm túc nhất của lớp, bài tập về nhà bao giờ cũng làm rất đâu vào đấy, ngay hôm đầu đã xin phép được thu băng giờ học để về nhà ôn lại. Một ông loắt choắt, tỏ ra thông thạo, vội giải thích “khó kinh hồn” chẳng qua là vì bồi bàn nói giọng Nam. Bà học trò nghiêm túc có vẻ không được thuyết phục lắm nhưng im lặng, không muốn mất thời gian vào việc tranh cãi, dù sao cũng bỏ tiền túi ăn quán tối nay.

Ông kia lại nói bạn gái ông ta “Hà Nội chính gốc” vào Sài Gòn chơi mà chỉ nghe được có một nửa, nửa còn lại phải nhờ phiên dịch của ông ta giải thích hộ. Những người khác nhìn ông ta gật gù. Còn ông ta thì nhìn cô len lén. Cách đây hơn năm, một lần sau giờ học, đợi những người khác về hết rồi, ông ta mới chìa ra một bức thư nhờ cô dịch hộ. Bức thư cụt lủn những chữ ngoằn ngoèo, rất khó đọc và be bét lỗi chính tả. Ngồi một lúc cô cũng luận ra được rằng người viết khẩn khoản yêu cầu ông ta gửi gấp tiền về để trả tiền nhà, tiền điện thoại và chuộc xe máy. Ông ta nghe xong thì đỏ mặt, gãi đầu nói “cô ấy” thực ra là một người cần kiệm, rất ít nhu cầu “vật chất”, chẳng qua vì gánh nặng gia đình nên mới cần ông ta giúp đỡ “tài chính”. Cô để ý rằng ông ta luôn tránh dùng từ “tiền”, cái từ, ngược lại, nao nức xuất hiện trong bức thư mà cô vừa dịch xong. Sau đó, ông ta rút từ túi áo ngực một tờ giấy A4 gấp tư, hóa ra đã đánh máy sẵn hồi âm và nhờ cô dịch hộ càng sớm càng tốt. Ở bến tàu điện ngầm, ông ta có vẻ suy nghĩ, cuối cùng trước khi bước lên tàu, ông ta nhìn cô gãi đầu nói “chuyện này” ông ta đề nghị cô giữ kín, vì ông ta và vợ đang giai đoạn ly dị, luật sư của ông ta yêu cầu không được để hở “chuyện này” ra ngoài. Sau đó, cô còn dịch thêm cho ông ta vài lần nữa, chủ yếu từ Việt sang Pháp, vì “cô ấy” ở đầu kia đã tìm được ai đó có thể dịch hộ thư của ông ta. Cô thấy nhẹ cả người, định hỏi tại sao “cô ấy” không nhờ dịch luôn thư trước khi gửi đi Pháp, nhưng lại thôi. Cô không hình dung nổi ông ta đến lớp tiếng Việt làm gì nếu không phải để nhờ dịch thư “cô ấy”.

Bồi bàn lần lượt mang ra các món, trông đều bắt mắt, món bò nướng có lẽ bắt mắt nhất, được mang ra sau cùng. Ai đó vừa thốt lên “nhìn kìa”, đã thấy chiếc chảo trên tay bồi bàn bốc cháy, lửa kêu xèo xèo, mùi thơm nức mũi. Thực khách trong phòng cùng ngoái ra xem, rồi một vị vỗ tay, những vị khác vỗ theo, rất nhiệt tình, không hiểu theo điệu nhạc tưởng tượng nào, riêng cô bỗng dưng nhớ tới bài hát “Nổi lửa lên em, đánh Mỹ đêm nay” từng rất được ưu ái bởi loa truyền thanh phường Thành Công. Bồi bàn đặt chảo vào giữa bàn, nhìn cô cười khoái chí: “Hà Nội không có món này nha!”. Mấy học trò lại nhìn nhau, vẫn chỉ nghe được mỗi từ “Hanoi”. Bà học trò nghiêm túc nhất không phản ứng. Bà ấy đang gắp một miếng bánh cuốn nhân tôm.

Mọi người lần lượt nếm các món rồi thi nhau khen ngon. Ông loắt choắt lại được dịp tỏ ra thông thạo, giải thích rằng muốn ăn cơm Việt phải tới Noisy-Le-Grand, vừa ngon vừa rẻ, chỉ ngại đường sá vòng vèo. Chị trung niên ngồi trước mặt nói đường sá vòng vèo thì sợ quái gì, thời buổi khủng hoảng toàn cầu, tiết kiệm được đồng nào hay đồng đấy. Nói xong thở phì phò như một con tê giác. Mọi người im thin thít. Chắc chưa ai quên giờ học cuối tháng Chạp vừa rồi, chủ đề là nghề nghiệp, học trò nào cũng được đề nghị trả lời câu hỏi: “Bạn làm nghề gì? Bạn có thích công việc của mình không?” Tất cả tham gia sôi nổi. “Thằng Luc ấy” còn mạnh bạo đưa ra một câu trả lời lê thê. Không ai hiểu gì nhưng cũng không bụm miệng cười. Có lẽ cũng nên một đôi lần tỏ ra khoan dung, nhất là vào những dịp lớp có sinh nhật như tối nay, góc phòng đã bày sẵn bánh ga tô, nước hoa quả, bia táo và một mùi gì thơm thơm rất đặc trưng của cơm Việt. Riêng chị trung niên thì cáu kỉnh ra mặt, thay vì trả lời bằng tiếng Việt, chị ta nhả ra một tràng tiếng Pháp: “Nghề của tôi ấy à, là nghề đi nhận trợ cấp thất nghiệp, vì trong khi mà các vị có cái may mắn là hằng ngày tới chỗ làm đú đởn với nhau thì tôi vừa bị đuổi việc hôm qua. He he, đúng như vậy đấy, thằng giám đốc nhân sự vớ được một con bớp ở đâu mang về, một thời gian sau tống cho tôi một lá thư, thông báo hợp đồng đã hết, công ty không có khả năng gia hạn”. Dứt lời, chị ta òa lên nức nở. Mọi người im thin thít. Thực ra, đây không phải là lần đầu tiên chị ta một mình khiêu khích tập thể. Cách đấy mấy tuần, trong một giờ học về chủ đề gia đình, chị ta kể rằng gia đình nhỏ của chị ta có một “thằng cu bé bỏng”, một tháng tuổi thôi, dễ thương vô cùng. Ai cũng giật mình kinh ngạc. Chị ta đã bao giờ bụng mang dạ chửa. Một người đánh bạo nói: “Vớ được ông chồng khéo ghê, cũng biết trông con trai cho vợ đi luyện tiếng Việt”. Thế là chị ta cười sằng sặc bảo chồng con quái gì, đấy là con tũn mà chị ta mới xin được, rồi kết luận tỉnh bơ: “Kể ra các vị cũng dễ tin nhỉ!”. Trong mọi giờ học, có bị hỏi bằng tiếng nào thì chị ta cũng cứ tiếng mẹ đẻ mà phang. Mỗi lần như thế cô lại tự nhủ chị ta phí tiền đi học tiếng Việt để làm gì. Trong Paris này, lướt net vài giây là hiện ra một tá hiệp hội của người độc thân. Tới đấy thế nào cũng tóm cổ được vài chục ông độc thân. Lớp tiếng Việt của cô có dăm ông độc thân, nhưng lại toàn các ông độc thân đang mong được phụ nữ Việt tóm cổ. Thế mà hình như chị ta không hiểu ra vấn đề, gần hai năm rồi vẫn tiếp tục trả tiền học để lâu lâu lại òa lên nức nở hay cười sằng sặc giữa lớp.

Lúc này, cô bỗng có linh cảm thế nào cũng xảy ra một cuộc đụng độ. Chị trung niên có cái vẻ hiếu chiến đáng sợ của một con tê giác mắc chứng trầm uất. Không hiểu tình cờ hay cố ý, hôm nay chị ta vận một chiếc váy màu xám nhạt, để lộ cặp đùi núng nính đi tất cũng xám nhạt, còn tóc thì búi thành một chiếc sừng nhỏ ngay trên trán. Người ta nói tê giác mà nổi cơn thịnh nộ thì không gì cản nổi, nhất là loại tê giác một sừng.

Ông loắt choắt lại lên tiếng kể chuyện du lịch Việt Nam, chủ yếu là lấy cớ để kể về “cô ấy” mà ông ta không ngừng nhấn mạnh là “Hà Nội chính gốc”. Những người khác không phản ứng. “Hà Nội chính gốc” hay “Hà Nội mở rộng” không quan trọng bằng bánh bột lọc nhân tôm hay bánh cuốn nhân thịt. Tám đĩa đồ ăn vơi đi rất nhanh. Sau đó lại bàn bạc để gọi thêm vài món nữa ăn với cơm rang thập cẩm cho chặt dạ dày. Thịt kho? Cá kho? Rau xào? Nhớ xin thêm bát nước mắm chanh ớt. Tinh thần tập thể có vẻ vẫn được giữ vững. Nhưng điều này khiến chị trung niên không thể chịu nổi. Chẳng thèm nhìn ai, chị ta tuyên bố một câu xanh rờn: “Biết thế đặt quách từ đầu một thực đơn 12 euro ba món, bảo đảm dạ dày chặt tới tận ngày mai, xong xuôi còn được khuyến mại một cà phê đá”. Mọi người im thin thít. Nói chung, từ sau cái lần chị ta kể chuyện con tũn, mỗi khi chị ta cất tiếng là ai nấy im thin thít.

Tối nay sự im lặng phảng phất ít nhiều bồn chồn: giống như cô, tất cả đều có cảm giác con tê giác đang tìm cách trút cơn thịnh nộ lên đầu ai đó. Chỉ ông loắt choắt là hồn nhiên, cười nói luôn miệng. Khi ông ta ngoác miệng ra, trông đặc biệt giống một con ễnh ương (trên người ông ta lúc này là một bộ com lê màu xanh biếc lác đác vài sợi óng ánh vàng, có vẻ đắt tiền nhưng hẳn là mua nhầm số). Nghe chị trung niên tuyên bố thì ông ta phẩy tay, ăn xong ai trả được bao nhiêu thì trả, phần còn lại ông ta chịu trách nhiệm. Cả bọn hoan hỉ, chị trung niên lúc lắc chiếc sừng nhỏ và ông ta tiếp tục kể chuyện du lịch Việt Nam. Từ lúc ấy cho tới gần cuối bữa, ông ta độc thoại. Có vẻ như ông ta chấp nhận trả nhiều tiền hơn để được nói về ông ta và “cô ấy”. Ông ta cần được thổ lộ “chuyện này” với người khác. Lớp tiếng Việt là nơi duy nhất ông ta có thể thổ lộ mà không đến nỗi nguy hại lắm. Ở nhà ông ta, ở nhà bạn bè ông ta, ở cơ quan ông ta, ở tất cả những nơi công cộng, ông ta buộc phải ngậm miệng vì luật sư của ông ta đã yêu cầu không được hở “chuyện này” ra ngoài. Ngồi ngay bên cạnh, cô ù hết hai tai vì kế hoạch “về hưu làm lại cuộc đời” của ông ta với Nguyễn Thị Dinh (trong tất cả các bức thư mà cô phải dịch sang tiếng Pháp, có mỗi ba chữ này là không phải luận gì). Đã mấy lần, cô thử tưởng tượng ông loắt choắt và cô Dinh dắt tay nhau đi tập tài chí chuẩn ở bờ hồ Hoàn Kiếm, nhưng lần nào cũng thất bại, vì trong óc cô nhất định chỉ hiện lên một con ễnh ương cao một mét rưỡi và con gái bà giúp việc nhà anh Mai. Bà giúp việc, hôm cô lên đường quay lại Pháp, đặt vào tay cô một bức ảnh con gái út để đầu duỗi, mặc áo dài cách điệu, dặn đi dặn lại: “Nếu quen anh Tây nào cô đơn thì gửi ngay về Hải Dương cho cái Dinh”.

 

 

CHƯƠNG 13

Paris

 

Câu chuyện của ông loắt choắt lẽ ra đã hạ cánh an toàn nếu ông ta không bất ngờ phang một câu khá gay cấn:

- Nhưng tôi và cô ấy chưa bao giờ làm cái trò đó!

Những người khác ngừng khua đũa.

Chị trung niên chồm hẳn dậy:

- Thế thì làm quái gì? Ngửi nách nhau chắc? Hay là uống vi-a-gờ-ra chưa đủ liều?

Chị ta nói to tới mức cả phòng giật mình quay ra. Cô hiểu là cuộc đụng độ đã thực sự bắt đầu. Vì hai người ngồi đối diện với nhau, và chị ta thì rất to con còn ông ta lại quá bé nhỏ, kẻ đứng người ngồi, nên từ ngoài nhìn vào, có cảm giác chị ta đang chuẩn bị chộp lấy ông ta, con tê giác chộp con ễnh ương, một hình ảnh không thể nói là không ấn tượng. Tuy vậy ông ta không có vẻ giận. Ông ta uống ực một ngụm nước lọc rồi trả lời dõng dạc như để mọi người cùng nghe:

- Chúng tôi đã quyết định trong thời gian tìm hiểu, không làm cái trò đó!

Chị trung niên thở hồng hộc, chiếc sừng nhỏ ve vẩy:

- Nghe ngứa cả tai. Không làm được gì thì cứ nói phắt ra cho nhau nhờ!

Uống thêm một ngụm nước lọc nữa, ông ta đáp lại bằng một câu tuyên bố đầy kiêu hãnh:

- Cô ấy vẫn còn trinh!

Ai đó bật cười. Nhưng những người khác dường như không để ý vì mải theo dõi cuộc đấu khẩu mà kẻ nào thích lý luận có thể gọi là cuộc đụng độ giữa truyền thống và hiện đại, còn kẻ nào không thích lý luận có thể gọi là cuộc đụng độ giữa tê giác và ễnh ương.

- Ối giời, đúng là thằng chập mạch! Chị trung niên cười hô hố, xa xa có tiếng cười theo. Ông loắt choắt tím mặt ngồi im. Một lát sau, dường như quá mếch lòng vì không được ai trong đám cửa tọa lên tiếng bênh vực, ông ta quay lại nhìn một lượt từ bàn này sang bàn khác, rồi bất ngờ phang một câu:

- Nói thật với các vị, tôi đã chán ngấy cái quy luật ngu xuẩn của các vị, cái quy luật mà đàn ông đàn bà cứ gặp nhau là phải đè ngửa nhau ra.

Không một phản ứng. Mọi người cúi đầu tiếp tục khua đũa. Kể ra nếu ông ta cường tráng hơn chút nữa thì thế nào câu tuyên bố này cũng thuyết phục được một vài tâm hồn lãng mạn. Ông ta xách cặp đứng lên, không nói không rằng đi thẳng xuống nhà. Ngay dưới bộ com lê xanh biếc, lộ ra một đôi giày cùng màu, bóng nhẫy và rất oách, nhưng có lẽ cũng mua nhầm số.

Bàn ăn hết vẻ sôi nối. Bảy khuôn mặt nhìn nhau gượng gạo. Bảy nỗi tuyệt vọng gắn liền với cái hóa đơn hẳn phải nở bung gấp bảy lần (từ lúc ông loắt choắt tuyên bố “ai trả được bao nhiêu cứ trả”, hai chục món nữa đã xuất hiện trên mặt bàn, không biết có chắc dạ hay không nhưng đều bắt mắt, lần nào bồi bàn bưng vào cũng được các thực khách trong phòng đồng loạt vỗ tay).

Chỉ đến lúc bà học trò nghiêm túc nhất e hèm gọi bồi bàn lại thanh toán, nhân tiện đem hộ chiếc máy tính để chia tiền cho tiện, thì cả bọn mới hay ông loắt choắt đã trả toàn bộ bằng thẻ visa. Bảy cái miệng toang hoác cười. Trên đường ra bến tàu điện ngầm, một người lên tiếng: - Thằng cha ấy làm gì mà có vẻ lắm đạn thế nhỉ?

Một người khác trả lời: - Giám đốc phụ trách thương mại, ở công ty cũng quyền sinh quyền sát chứ bộ!

Chị trung niên đắc thắng: - Biết ngay mà, tất cả những thằng giám đốc đều chết mê chết mệt những con bớp!

Mọi người im thin thít cho tới lúc đường ai nấy đi.

Sau lần đổi tàu, không hiểu bằng cách nào, cô tình cờ ngồi sau lưng hai học trò, vẫn đang theo đuổi câu chuyện từ nãy. Học trò thứ nhất có vẻ cay cú, thề rằng vụ này cần phải kiểm tra lại, vì theo anh ta “con ễnh ương ấy mọt đời cũng không lên được chức giám đốc”, anh ta nói có sách mách có chứng, anh ta vừa đọc xong một cuốn sách cực hay tên là Cẩm nang xem tướng Trung Hoa, cuốn sách ấy khẳng định rằng “loắt choắt” là một điều tối kỵ trong tướng mạo con người.

Học trò thứ hai cố pha trò bằng cách bảo các cụ tác giả có lẽ cần đội mồ đứng dậy mà cập nhật cẩm nang, thử tới dự một cuộc họp lãnh đạo công ty anh ta mà xem, một tiểu đội ễnh ương ngồi chồm chỗm, điểm mặt ra toàn các sếp bự.

Học trò thứ nhất không có cách nào phản biện, đành chua chát ghi nhận rằng đó là lý do mà trong cả lớp chỉ có “con ễnh ương ấy” mới đủ đạn để năm nào cũng lượn vài vòng Việt Nam. “Còn những bọn như tôi và anh thì chắt bóp mãi mà chưa đi nổi một lần”, anh ta nói thêm có phần khiêu khích.

Dường như không để ý, học trò thứ hai tiếp tục đùa cợt:

- Sang Việt Nam đột nhiên ễnh ương trở thành tê giác, có khi còn cưỡi cả xe máy phân khối lớn.

Vẫn không thể nào thoát khỏi trạng thái cay cú, học trò thứ nhất thốt lên:

- Nhưng sang Việt Nam mà không làm cái trò đó thì sang làm quái gì!

Học trò thứ hai im lặng, vẻ suy nghĩ, một lát sau nhắc lại, giọng phẫn uất:

- Ừ, sang Việt Nam mà không làm cái trò đó thì sang làm quái gì!

Thế rồi cả hai xuống tàu bỏ cô ngồi lại với ý nghĩ rất có thể sáng nay, ông loắt choắt đã giải quyết xong vụ ly dị, nên tỏ ra rất thoải mái khi kể chuyện “cô ấy”, và cũng nhân đây muốn chiêu đãi cả lớp một bữa. Giá như không có vụ đụng độ với chị trung niên, biết đâu ông ta còn cao hứng mời cả lớp sang Việt Nam dự đám cưới - tiền vé trả được bao nhiêu cứ trả, phần còn lại ông ta chịu trách nhiệm.

Sau đó, cô tưởng tượng ra cách đây nửa ngày ông ta đứng giữa tòa (trong bộ com lê xanh biếc và rộng hơn hai số), ngó vào mặt từng thành viên đoàn bồi thẩm, rồi bất ngờ phang một câu: “Nói thật với các vị, tôi đã chán ngấy cái quy luật của các vị, cái quy luật mà đàn ông đàn bà cứ lấy nhau là phải ăn đời ở kiếp với nhau!”. Luật sư của ông ta sững sờ. Bà vợ ông ta cũng sững sờ, rồi nước mắt tuôn rơi như đài phun nước (rất có thể bà ta cũng vận một bộ váy xam xám, để lộ cặp đùi núng nính, và tóc cũng búi thành chiếc sừng nhỏ ngay giữa trán). Ai cũng tỏ vẻ thông cảm. Một con tê giác cũng có quyền đau khổ cơ mà. Phiên tòa kết thúc, bà vợ kéo luật sư ra một góc:

- Năm nào lão ấy cũng lượn vài vòng Việt Nam, không hiểu để làm gì?

- Sang Việt Nam, không làm cái trò đó, thì có quái gì mà làm? luật sư quặc lại.

- Nhưng lão ấy bất lực! bà vợ khẩn khoản.

- Thì đã có vi-a-gờ ra! luật sư cười khẩy.

Bà vợ lại òa lên.

Cô về tới nhà khi đồng hồ chỉ hai mươi ba giờ. Thằng Mike đã được bác hàng xóm đón về từ sáu giờ chiều, đang ngủ trên đi-văng, tay nắm chặt, bên cạnh là vô tuyến, chương trình “Điều tra tội phạm”, cấm trẻ em dưới 12 tuổi.

 

[còn tiếp]

 

 

-----------------------
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021