thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
WATT (trích)

 

Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn

 

 

Beckett bắt đầu viết Watt, cuốn tiểu thuyết thứ hai của ông, năm 1942 tại Paris, rồi tiếp tục viết tại Rousillon nơi ông trốn tránh bọn Gestapo trong những năm 1942-1943, và hoàn tất tại Dublin và Paris năm 1945. Tuy nhiên, đến năm 1953, một năm sau khi tung ra vở kịch Waiting for Godot, ông mới cho xuất bản Watt. Một số phê bình gia, trong đó có Ruby Cohn (1922~) — một học giả chuyên khảo về Beckett —, đã gọi Watt là "phản - tiểu thuyết" (anti-novel), vì nó vượt qua mọi định nghĩa cố hữu về khái niệm "tiểu thuyết". Cuốn "tiểu thuyết" Watt xoay quanh một cốt truyện rất đơn giản: một chàng đầy tớ tên Watt (đồng âm với chữ "What" ["Cái gì?"]) loay hoay tìm kiếm ý nghĩa của mọi thứ trong ngôi nhà của ông Knott (đồng âm với chữ "Not" ["Không"]). Trong ngôi nhà đó, mỗi sự vật nhỏ nhặt cứ liên tục thay đổi không ngừng.
 
Viết xong Watt vào năm 1945, nhưng ngòi bút tiền vệ của Beckett đã sớm biểu hiện những đặc tính của văn chương hậu hiện đại. Trong tiểu luận "Samuel Beckett's Postmodern Fictions" ["Những tác phẩm hư cấu hậu hiện đại của Samuel Beckett"],[1] Brian Finney nhận định:
 
Chữ "Cái gì?" của Watt bị phủ định bởi chữ "Không" của Knott. Sự liên kết của hai nhân vật này làm sinh ra "whatnot" ["cáigìkhông"], một sự vắng mặt của những đại tự sự, đặt biệt là những đại tự sự của các nhà duy lý từ cuối thế kỷ mười bảy đến thế kỷ mười tám. Trong khi Descartes biện luận theo đường lối từ tư duy đến hiện hữu rồi dẫn đến Thượng đế, thì Watt tìm thấy rằng sự vận dụng của lý trí tư biện làm hắn tự hoài nghi bản thân, đồng thời hoài nghi chính một điều thuộc về sự thiêng liêng: cái hiện hữu.
 
Mời độc giả thưởng thức hai trích đoạn đặc biệt thú vị dưới đây. Bằng thủ pháp thiểu tố (minimalist), chỉ với một vài đồ vật và vị trí, Beckett đã tạo nên những biến thiên chi li và phức tạp. Ở đây, chúng ta vừa quan sát sự vật qua con mắt của Watt, vừa từng bước dò theo hành trình tâm lý của Watt để đi vào cái thế giới mà hắn phải đối phó bằng sự hoài nghi không ngừng.
 

_______________________

 

WATT

(trích)

 

Về hai bàn chân của ông ấy, có đôi khi ông ấy mang vào mỗi bàn chân một chiếc tất, hay bàn chân này mang một chiếc tất và bàn chân kia một chiếc vớ dài, hay một chiếc ủng, hay một chiếc giày, hay một chiếc dép, hay một chiếc tất và một chiếc giày, hay một chiếc tất và một chiếc dép, hay một chiếc vớ dài và chiếc ủng, hay một chiếc vớ dài và chiếc giày, hay một chiếc vớ dài và chiếc dép, hay không mang gì cả. Và có đôi khi ông ấy mang vào mỗi bàn chân một chiếc vớ dài, hay bàn chân này mang một chiếc vớ dài và bàn chân kia một chiếc ủng, hay một chiếc giày, hay một chiếc dép, hay một chiếc tất và một chiếc ủng, hay một chiếc tất và chiếc giày, hay một chiếc tất và chiếc dép, hay một chiếc vớ dài và chiếc ủng, hay một chiếc vớ dài và chiếc giày, hay một chiếc vớ dài và chiếc dép, hay không mang gì cả. Và có đôi khi ông ấy mang vào mỗi bàn chân một chiếc ủng, hay bàn chân này mang một chiếc ủng và bàn chân kia một chiếc giày, hay một chiếc dép, hay một chiếc tất và một chiếc ủng, hay một chiếc tất và chiếc giày, hay một chiếc tất và chiếc dép, hay một chiếc vớ dài và chiếc ủng, hay một chiếc vớ dài và chiếc giày, hay một chiếc vớ dài và chiếc dép, hay không mang gì cả. Và có đôi khi ông ấy mang vào mỗi bàn chân một chiếc giày, hay bàn chân này mang một chiếc giày và bàn chân kia một chiếc dép, hay một chiếc tất và chiếc ủng, hay một chiếc tất và chiếc giày, hay một chiếc tất và chiếc dép, hay một chiếc vớ dài và chiếc ủng, hay một chiếc vớ dài và chiếc giày, hay một chiếc vớ dài và chiếc dép hay không mang gì cả. Và có đôi khi ông ấy mang vào mỗi bàn chân một chiếc dép, hay bàn chân này mang một chiếc dép và bàn chân kia một chiếc tất và chiếc ủng, hay một chiếc tất và chiếc giày, hay một chiếc tất và chiếc dép, hay một chiếc vớ dài và chiếc ủng, hay một chiếc vớ dài và chiếc giày, hay một chiếc vớ dài và chiếc dép, hay không mang gì cả. Và có đôi khi ông ấy mang vào mỗi bàn chân một chiếc tất và chiếc ủng, hay bàn chân này mang một chiếc tất và chiếc ủng và bàn chân kia một chiếc chiếc tất và chiếc giày, hay một chiếc tất và chiếc dép, hay một chiếc vớ dài và chiếc ủng, hay một chiếc vớ dài và chiếc giày, hay một chiếc vớ dài và chiếc dép, hay không mang gì cả. Và có đôi khi ông ấy mang vào mỗi bàn chân một chiếc tất và chiếc giày, hay bàn chân này mang một chiếc tất và chiếc giày và bàn chân kia một chiếc chiếc tất và chiếc dép, hay một chiếc vớ dài và chiếc ủng, hay một chiếc vớ dài và chiếc giày, hay một chiếc vớ dài và chiếc dép, hay không mang gì cả. Và có đôi khi ông ấy mang vào mỗi bàn chân một chiếc tất và chiếc dép, hay bàn chân này mang một chiếc tất và chiếc dép và bàn chân kia một chiếc vớ dài và chiếc ủng, hay một chiếc vớ dài và chiếc giày, hay một chiếc vớ dài và chiếc dép, hay không mang gì cả. Và có đôi khi ông ấy mang vào mỗi bàn chân một chiếc vớ dài và chiếc ủng, hay bàn chân này mang một chiếc vớ dài và chiếc ủng và bàn chân kia một chiếc vớ dài và chiếc giày, hay một chiếc vớ dài và chiếc dép, hay không mang gì cả. Và có đôi khi ông ấy mang vào mỗi bàn chân một chiếc vớ dài và chiếc giày, hay bàn chân này mang một chiếc vớ dài và chiếc giày và bàn chân kia một chiếc vớ dài và chi኿c dép, hay không mang gì cả. Và có đôi khi ông ấy mang vào mỗi bàn chân một chiếc vớ dài và chiếc dép, hay bàn chân này mang một chiếc vớ dài và chiếc dép và bàn chân kia không mang gì cả. Và có đôi khi ông ấy đi chân không.

 

[...]

 

Tại đây ông ấy đã đứng. Tại đây ông ấy đã ngồi. Tại đây ông ấy đã quỳ. Tại đây ông ấy đã nằm. Tại đây ông ấy đã di chuyển, tới và lui, từ cửa lớn đến cửa sổ, từ cửa sổ đến cửa lớn; từ cửa sổ đến cửa lớn, từ cửa lớn đến cửa sổ; từ lò sưởi đến giường, từ giường đến lò sưởi; từ giường đến lò sưởi, từ lò sưởi đến giường; từ cửa lớn đến lò sưởi, từ lò sưởi đến cửa lớn; từ lò sưởi đến cửa lớn, từ cửa lớn đến lò sưởi; từ cửa sổ đến giường, từ giường đến cửa sổ; từ giường đến cửa sổ, từ cửa sổ đến giường; từ lò sưởi đến cửa sổ, từ cửa sổ đến lò sưởi; từ cửa sổ đến lò sưởi, từ lò sưởi đến cửa sổ; từ giường đến cửa lớn, từ cửa lớn đến giường; từ cửa lớn đến giường, từ giường đến cửa lớn; từ cửa lớn đến cửa sổ, từ cửa sổ đến lò sưởi; từ lò sưởi đến cửa sổ, từ cửa sổ đến cửa lớn; từ cửa sổ đến cửa lớn, từ cửa lớn đến giường; từ giường đến cửa lớn, từ cửa lớn đến cửa sổ; từ lò sưởi đến giường, từ giường đến cửa sổ; từ cửa sổ đến giường, từ giường đến lò sưởi; từ giường đến lò sưởi, từ lò sưởi đến cửa lớn; từ cửa lớn đến lò sưởi, từ lò sưởi đến giường; từ cửa lớn đến cửa sổ, từ cửa sổ đến giường; từ giường đến cửa sổ, từ cửa sổ đến cửa lớn; từ cửa sổ đến cửa lớn, từ cửa lớn đến lò sưởi; từ lò sưởi đến cửa lớn, từ cửa lớn đến cửa sổ; từ lò sưởi đến giường, từ giường đến cửa lớn; từ cửa lớn đến giường, từ giường đến lò sưởi; từ giường đến lò sưởi, từ lò sưởi đến cửa sổ; từ cửa sổ đến lò sưởi, từ lò sưởi đến giường; từ cửa lớn đến lò sưởi, từ lò sưởi đến cửa sổ; từ cửa sổ đến lò sưởi, từ lò sưởi đến cửa lớn; từ cửa sổ đến giường, từ giường đến cửa lớn; từ cửa lớn đến giường, từ giường đến cửa sổ; từ lò sưởi đến cửa sổ, từ cửa sổ đến giường; từ giường đến cửa sổ, từ cửa sổ đến lò sưởi; từ giường đến cửa lớn, từ cửa lớn đến lò sưởi; từ lò sưởi đến cửa lớn, từ cửa lớn đến giường.

Căn phòng được trang thiết cứng cáp và có khẩu vị thẩm mỹ.

Những đồ trang thiết cứng cáp và có khẩu vị thẩm mỹ đã được ông Knott thường xuyên cho thay đổi vị trí, những sự thay đổi này vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối. Vì thế, chẳng phải hiếm gì những lúc, vào Chủ Nhật, cái tủ áo đứng bên cạnh lò sưởi, và chiếc bàn gương nằm lộn ngược đầu bên cạnh giường, và cái bồn tiểu úp mặt xuống bên cạnh cửa lớn, và chậu rửa tay nằm ngửa bên cạnh cửa sổ; và, vào thứ Hai, cái tủ áo nằm ngửa bên cạnh giường, và chiếc bàn gương úp mặt xuống bên cạnh cửa lớn, và cái bồn tiểu nằm ngửa bên cạnh cửa sổ, và chậu rửa tay đứng bên cạnh lò sưởi; và, vào thứ Ba, cái tủ áo úp mặt xuống bên cạnh cửa lớn, và chiếc bàn gương nằm ngửa bên cạnh cửa sổ, và cái bồn tiểu đứng bên cạnh lò sưởi, và chậu rửa tay nằm lộn ngược đầu bên cạnh giường; và, vào thứ Tư, cái tủ áo nằm ngửa bên cạnh cửa sổ, và chiếc bàn gương đứng bên cạnh lò sưởi, và cái bồn tiểu nằm lộn ngược đầu bên cạnh giường, và chậu rửa tay úp mặt xuống bên cạnh cửa lớn; và, vào thứ Năm, cái tủ áo nằm nghiêng bên cạnh lò sưởi, và chiếc bàn gương đứng bên cạnh giường, và cái bồn tiểu nằm lộn ngược đầu bên cạnh cửa lớn, và chậu rửa tay úp mặt xuống bên cạnh cửa sổ; và, vào thứ Sáu, cái tủ áo đứng bên cạnh giường, và chiếc bàn gương nằm lộn ngược đầu bên cạnh cửa lớn, và cái bồn tiểu úp mặt xuống bên cạnh cửa sổ, và chậu rửa tay nằm nghiêng bên cạnh lò sưởi; và, vào thứ Bảy, cái tủ áo nằm lộn ngược đầu bên cạnh cửa lớn, và chiếc bàn gương úp mặt xuống bên cạnh cửa sổ, và cái bồn tiểu úp nằm nghiêng bên cạnh lò sưởi, và chậu rửa tay đứng bên cạnh giường; và, vào Chủ Nhật tuần tới, cái tủ áo úp mặt xuống bên cạnh cửa sổ, và chiếc bàn gương nằm nghiêng bên cạnh lò sưởi, và cái bồn tiểu đứng bên cạnh giường, và chậu rửa tay nằm lộn ngược đầu bên cạnh cửa lớn; và, vào thứ Hai tuần tới, cái tủ áo nằm ngửa bên cạnh lò sưởi, và chiếc bàn gương nằm nghiêng bên cạnh giường, và cái bồn tiểu đứng bên cạnh cửa lớn, và chậu rửa tay nằm lộn ngược đầu bên cạnh cửa sổ; và, vào thứ Ba tuần tới, cái tủ áo nằm nghiêng bên cạnh giường, và chiếc bàn gương đứng bên cạnh cửa lớn, và cái bồn tiểu nằm lộn ngược đầu bên cạnh cửa sổ, và chậu rửa tay nằm ngửa bên cạnh lò sưởi; và, vào thứ Tư tuần tới, cái tủ áo đứng bên cạnh cửa lớn, và chiếc bàn gương nằm lộn ngược đầu bên cạnh cửa sổ, và cái bồn tiểu nằm ngửa bên cạnh lò sưởi, và chậu rửa tay nằm nghiêng bên cạnh giường; và, vào thứ Năm tuần tới, cái tủ áo nằm lộn ngược đầu bên cạnh cửa sổ, và chiếc bàn gương nằm ngửa bên cạnh lò sưởi, và cái bồn tiểu nằm nghiêng bên cạnh giường, và chậu rửa tay đứng bên cạnh cửa lớn; và, vào thứ Sáu tuần tới, cái tủ áo úp mặt xuống bên cạnh lò sưởi, và chiếc bàn gương nằm ngửa bên cạnh giường, và cái bồn tiểu nằm nghiêng bên cạnh cửa lớn, và chậu rửa tay đứng bên cạnh cửa sổ; và, vào thứ Bảy tuần tới, cái tủ áo nằm ngửa bên cạnh giường, và chiếc bàn gương nằm nghiêng bên cạnh cửa lớn, và cái bồn tiểu đứng bên cạnh cửa sổ, và chậu rửa tay úp mặt xuống bên cạnh lò sưởi; và, và Chủ Nhật nửa tháng tới, cái tủ áo nằm nghiêng bên cạnh cửa lớn, và chiếc bàn gương đứng bên cạnh cửa sổ, và cái bồn tiểu úp mặt xuống bên cạnh lò sưởi, và chậu rửa tay nằm ngửa bên cạnh giường; và, vào thứ Hai nửa tháng tới, cái tủ áo đứng bên cạnh cửa sổ, và chiếc bàn gương úp mặt xuống bên cạnh lò sưởi, và cái bồn tiểu nằm ngửa bên cạnh giường, và chậu rửa tay nằm nghiêng bên cạnh cửa lớn; và, vào thứ Ba nửa tháng tới, cái tủ áo nằm lộn ngược đầu bên cạnh lò sưởi, và chiếc bàn gương úp mặt xuống bên cạnh giường, và cái bồn tiểu nằm ngửa bên cạnh cửa lớn, và chậu rửa tay nằm nghiêng bên cạnh cửa sổ; và, vào thứ Tư nửa tháng tới, cái tủ áo úp mặt xuống bên cạnh giường, và chiếc bàn gương nằm ngửa bên cạnh cửa lớn, và cái bồn tiểu nằm nghiêng bên cạnh cửa sổ, và chậu rửa tay nằm lộn ngược đầu bên cạnh lò sưởi; và, vào thứ Năm nửa tháng tới, cái tủ áo nằm ngửa bên cạnh cửa lớn, và chiếc bàn gương nằm nghiêng bên cạnh cửa sổ, và cái bồn tiểu nằm lộn ngược đầu bên cạnh lò sưởi, và chậu rửa tay úp mặt xuống bên cạnh giường; và, vào thứ Sáu nửa tháng tới, cái tủ áo nằm nghiêng bên cạnh cửa sổ, và chiếc bàn gương nằm lộn ngược đầu bên cạnh lò sưởi, và cái bồn tiểu úp mặt xuống bên cạnh giường, và chậu rửa tay nằm ngửa bên cạnh cửa lớn, lấy ví dụ, chẳng phải hiếm gì những lúc, chỉ thử xét xem, qua một thời kỳ chỉ có mười chín ngày, cái tủ áo, chiếc bàn gương, cái bồn tiểu và chậu rửa tay, và những cái chân, những cái đầu, những cái mặt, và những cái lưng của chúng và những cạnh không kể đến, và lò sưởi, và cái giường, và cửa lớn, và cửa sổ, chẳng phải hiếm gì những lúc như thế.

Còn về những cái ghế, cũng thế, chỉ nói đến những cái ghế thôi cũng thế, chẳng bao giờ chúng ở nguyên một chỗ.

 

 

---------------------
Trích từ Samuel Beckett, Watt (Paris: Olympia Press / Collection Merlin, 1953).

 

 

 

_________________________

[1]Trong John Richetti (ed.) The Columbia History of the British Novel (New York: Columbia UP, 1994).


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021