thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
CUỐN SỔ LỚN: [chương cuối] “Cuộc chia ly”

 

Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn

 

AGOTA KRISTOF

(1935~)

 

Lời người dịch:
 
Tôi bắt đầu dịch cuốn tiểu thuyết này từ ngày 13/08/2006. Trước kia, tôi chưa từng đọc Agota Kristof, cho đến khi nhận một gói quà do nhà thơ Nguyễn Đăng Thường gửi từ Luân-đôn vào đầu tháng 8 năm 2006. Gói quà gồm một chồng sách của George Steiner và Agota Kristof. George Steiner, vâng, tôi đã khoái ông ấy từ lâu. Nhưng Agota Kristof? Ba cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof được trình bày rất đẹp. Một bộ ba: Le Grand Cahier, La Preuve, và Le Troisième Mensonge. Tôi giở ra đọc và... bị cuốn theo những dòng chữ của Agota Kristof. Tôi đọc liên tục nhiều giờ, không dừng lại được. Tôi email cho anh Nguyễn Đăng Thường: "...mình muốn xăn tay áo lên dịch ngay ra tiếng Việt..." Và, thật vậy, tôi đã dịch ngay.
 
Đọc là một lạc thú. Dịch cũng là một lạc thú. Đọc là nhận vào cho mình. Dịch là đem ra chia sẻ với người khác. Đọc một tác phẩm hay, cũng giống như xem một cuốn phim hay, thật khó mà thưởng thức một mình. Bởi thế, từ trước đến giờ, tôi vẫn cố gắng dịch và đem ra đăng những gì mình đọc và thích. Lần này, bộ ba tiểu thuyết của Agota Kristof cũng giục giã tôi ngồi xuống trước máy computer để chia sẻ cái cảm giác khoái trá của mình. Vâng, và như thế, từ hôm đó đến nay tôi đã nhẩn nha dịch và thỉnh thoảng gửi đến độc giả một vài chương tiểu thuyết Le Grand Cahier của Agota Kristof. Thấm thoắt mà đã xong cuốn đầu của bộ ba tiểu thuyết. Và, tất nhiên, tôi sẽ tiếp tục dịch cuốn thứ nhì, rồi cuốn thứ ba. Chứ sao không? Ai mà chẳng muốn theo đuổi một lạc thú... đến cùng!
 
Một lần nữa, cám ơn nhà thơ Nguyễn Đăng Thường đã cho tôi cái lạc thú khôn tả này.
 
Hoàng Ngọc-Tuấn
Sydney, 14/05/2007

 

____________

 

CUỐN SỔ LỚN

 

Cuộc chia ly

 

Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy rất sớm. Chúng tôi xem lại để biết chắc rằng Bố đang ngủ say.

Chúng tôi chuẩn bị bốn tấm ván.

Chúng tôi đào kho báu của Bà Ngoại lên: những thỏi vàng và bạc, rất nhiều món châu ngọc. Chúng tôi đặt hầu hết những thứ ấy vào một túi vải. Mỗi đứa chúng tôi cũng mang theo một quả lựu đạn, phòng trường hợp bất ngờ gặp phải bọn lính tuần tiễu. Dẹp được bọn lính tuần tiễu, chúng tôi có nhiều thì giờ hơn.

Chúng tôi đi do thám một vòng gần biên giới để xác định vị trí tốt nhất: một góc khuất giữa hai chòi canh. Nơi đó, dưới một gốc cây to, chúng tôi giấu cái túi vải và hai tấm ván.

Chúng tôi trở về, chúng tôi ăn uống. Sau đó, chúng tôi mang thức ăn điểm tâm đến cho Bố. Chúng tôi phải lay ông để đánh thức ông. Ông dụi mắt và nói:

— Đã lâu rồi bố mới được ngủ ngon như thế.

Chúng tôi đặt khay thức ăn lên hai đầu gối của ông. Ông nói:

— Thật là một bữa tiệc! Sữa, cà-phê, trứng, dăm-bông, bơ, mứt! Những thứ này không thể tìm thấy ở Phố Lớn. Làm cách nào các con có được?

— Chúng con làm việc. Ăn đi, Bố. Chúng con không có thì giờ để mời bố ăn một bữa nữa trước khi bố lên đường.

Ông hỏi:

— Tối nay đi hả?

Chúng tôi nói:

— Đi ngay bây giờ. Bố ăn xong thì đi ngay.

Ông nói:

— Các con điên rồi hả? Bố từ chối vượt qua cái biên giới chó đẻ đó vào giữa ban ngày! Bọn chúng sẽ thấy.

Chúng tôi nói:

— Chúng ta cũng cần phải thấy đường, Bố ạ. Chỉ có những người ngu mới cố vượt biên giới vào ban đêm. Ban đêm, mật độ tuần tiễu tăng gấp bốn lần và cả khu vực đó thường xuyên bị quét đèn pha. Ngược lại, sự canh gác trở nên lỏng lẻo vào khoảng mười một giờ sáng. Bọn lính biên phòng nghĩ rằng chẳng có ai điên mà vượt biên giới vào giờ đó.

Bố nói:

— Các con tuyệt đối hữu lý. Bố trông cậy vào các con.

Chúng tôi hỏi:

— Bố cho phép chúng con lục soát các túi quần túi áo của bố trong lúc bố ăn chứ?

— Các túi của bố? Tại sao?

— Bố không được để lộ danh tính. Nếu có điều gì xảy ra và bọn chúng biết bố là bố của chúng con, thì chúng con sẽ bị kết tội tòng phạm.

Bố nói:

— Các con nghĩ đủ hết mọi chuyện.

Chúng tôi nói:

— Chúng con phải nghĩ đến sự an toàn cho bản thân.

Chúng tôi lục soát quần áo của bố. Chúng tôi lấy những thứ giấy tờ, thẻ căn cước của Bố, sổ địa chỉ, một chiếc vé xe lửa, mấy cái biên lai và một tấm ảnh của Mẹ. Chúng tôi đốt tất cả trong lò bếp, trừ tấm ảnh.

Lúc mười một giờ, chúng tôi lên đường. Mỗi đứa chúng tôi mang một tấm ván.

Bố không mang gì cả. Chúng tôi bảo ông chỉ đi theo chúng tôi và gây ít tiếng động chừng nào tốt chừng ấy.

Chúng tôi đến gần biên giới. Chúng tôi bảo Bố nằm xuống sau một cây to và đừng nhúc nhích.

Chẳng mấy chốc, cách chúng tôi vài mét, có hai tên lính tuần tiễu đi ngang qua. Chúng tôi có thể nghe bọn chúng nói:

— Tao tự hỏi sẽ được ăn món gì.

— Thì cũng thứ cứt ấy như thường lệ.

— Hết thứ cứt này đến thứ cứt khác. Hôm qua, đồ ăn rất ghê tởm, nhưng đôi khi cũng có bữa ngon.

— Ngon? Mày sẽ không nói như vậy nếu mày đã ăn món xúp mẹ tao nấu.

— Tao chưa bao giờ ăn món xúp mẹ mày nấu. Mẹ hả, tao, tao cũng chẳng có mẹ. Tao chưa bao giờ được ăn gì ngoài cứt đái. Trong quân đội, ít ra, tao cũng có lúc được ăn ngon.

Bọn tuần tiễu đi xa. Chúng tôi nói:

— Đi, Bố. Chúng ta có hai mươi phút trước khi đám lính tuần tiễu khác lại đến.

Bố kẹp hai tấm ván dưới nách, bước tới, đặt một tấm ván dựa vào hàng rào, trèo lên.

Chúng tôi nằm úp mặt dưới gốc cây to, chúng tôi bịt hai tai, chúng tôi hả miệng.

Có một tiếng nổ.

Chúng tôi chạy đến hàng rào kẽm gai với hai tấm ván và cái túi vải.

Bố nằm gần hàng rào thứ nhì.

Đúng, có một cách để vượt qua biên giới: đó là cho một người nào đó đi trước.

Nhặt cái túi vải, bước theo dấu chân, rồi dậm lên cái xác cứng đờ của Bố, một đứa chúng tôi đi vào đất nước khác.

Đứa ở lại trở về nhà Bà Ngoại.

 

[hết]
Đón đọc: BẰNG CHỨNG (La Preuve),
cuốn thứ nhì trong bộ ba tiểu thuyết của Agota Kristof.

 

---------
Dịch từ nguyên tác Pháp văn, “La séparation” [chương 62], trong Agota Kristof, La Grand Cahier (Paris: Éditions du Seuil, 1986).
 
 

Đã đăng:

Chúng tôi đến từ Phố Lớn. Chúng tôi đã đi suốt đêm. Đôi mắt của Mẹ đỏ ngầu. Mẹ mang một hộp các-tông lớn, và hai anh em tôi mỗi đứa mang một va-li nhỏ đựng quần áo, cộng với cuốn từ điển to kềnh của Bố mà anh em tôi thay nhau ôm cho đỡ mỏi tay... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Bà Ngoại của chúng tôi là mẹ của Mẹ chúng tôi. Trước khi đến sống trong nhà bà, chúng tôi không hề biết Mẹ chúng tôi lại còn có một bà mẹ. Chúng tôi gọi bà là Bà Ngoại. Người ta gọi bà là Mụ Phù Thuỷ. Bà gọi chúng tôi là "đồ chó đẻ"... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Chúng tôi phải làm một số công việc nào đó cho Bà Ngoại, nếu không thì bà không cho chúng tôi ăn và bà để chúng tôi ngủ ngoài trời. Đầu tiên chúng tôi không chịu vâng lời bà. Chúng tôi ngủ ngoài vườn, chúng tôi ăn trái cây và rau đậu sống... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Hố xí thì ở cuối vườn. Không bao giờ có giấy. Chúng tôi chùi đít bằng những chiếc lá to nhất của những loại cây nào đó. Chúng tôi bốc ra cái mùi hỗn hợp của cứt bò, cá, cỏ, nấm, khói, sữa, phô-mai, bùn, đất sét, đất thịt, mồ hôi, nước đái, và mùi meo mốc... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chúng tôi quyết định làm cho thể xác chúng tôi cứng cáp hơn để có thể chịu đựng sự đau đớn mà không khóc. Chúng tôi bắt đầu bằng cách tát tai nhau, rồi đấm nhau. Thấy mặt chúng tôi sưng vù, Bà Ngoại hỏi: — Ai đánh bọn mày đấy? — Chính chúng con đấy, Bà Ngoại. — Bọn mày đánh nhau à? Tại sao? — Chẳng tại sao cả, Bà Ngoại. Đừng lo, đó chỉ là một bài thực tập... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Chúng tôi nằm trên băng ghế hình góc vuông ở trong bếp. Đầu chúng tôi chạm nhau. Chúng tôi chưa ngủ, nhưng mắt chúng tôi nhắm lại. Có ai đẩy cửa vào. Chúng tôi mở mắt... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Bà Ngoại nói với chúng tôi: — Bọn chó đẻ! — Người ta nói với chúng tôi: — Lũ con của Mụ Phù Thuỷ! Đám con của đĩ! — Những kẻ khác nói: — Đồ ngu xuẩn! Quân đầu trộm đuôi cướp! Bọn hỗn láo! Đồ lỗ đít! Lũ bẩn thỉu! Đồ heo! Bọn mạt hạng! Lũ con hoang! Đồ cứt són! Quân chết tiệt! Nòi sát nhân!... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Vài ngày sau, chúng tôi bắt đầu đến trường. Mỗi đứa ở một lớp khác nhau. Cả hai đứa đều ngồi hàng ghế đầu. Chúng tôi cách xa nhau bằng cả chiều dài của nhà trường. Khoảng cách ấy thật quái dị, nỗi đau đớn không thể chịu nổi. Giống như người ta cắt mất nửa thân thể của chúng tôi... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Nó nói: “Tên tao là Sứt Môi. Tao thích sữa.” Nó mỉm cười. Răng nó đen. “Tao thích sữa, nhưng tao thích nhất là bú cái vú con dê. Sướng lắm. Nó vừa cứng lại vừa mềm.” Chúng tôi không nói lời nào. Nó bước đến gần. “Tao cũng thích bú một thứ khác nữa.” Nó giơ tay ra, chúng tôi lùi lại... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Chúng tôi mặc vào những thứ áo quần dơ dáy và rách rưới, chúng tôi cởi giày ra, chúng tôi bôi lem luốc mặt mũi và hai bàn tay. Chúng tôi đi ra đường. Chúng tôi dừng lại, chúng tôi chờ đợi... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Chúng tôi câu cá nơi dòng sông. Sứt Môi chạy qua. Nó không thấy chúng tôi. Nó nằm xuống cỏ, kéo váy lên. Nó không có quần lót. Chúng tôi thấy cặp mông đít phơi truồng của nó và nhúm lông giữa hai chân nó. Chúng tôi chưa có lông giữa hai chân. Sứt Môi có, nhưng rất ít... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Một đứa trong chúng tôi làm thằng mù, đứa kia làm thằng điếc. Để thực hiện, trước hết, thằng mù lấy một tấm khăn choàng đen của Bà Ngoại buộc lên hai con mắt, thằng điếc thì nhét cỏ vào hai lỗ tai... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Chúng tôi phát hiện một người đàn ông trong rừng. Một người đàn ông còn sống, một người đàn ông trẻ, không mặc quân phục. Ông đang nằm dưới một bụi cây. Ông nhìn chúng tôi, bất động... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Chúng tôi thông báo cho Bà Ngoại: “Hôm nay và ngày mai chúng con sẽ không ăn. Chúng con chỉ uống nước.” Bà nhún vai: “Mặc kệ bọn mày. Nhưng bọn mày vẫn phải làm việc như thường lệ.” “Tất nhiên, Bà Ngoại.” Ngày đầu tiên, bà giết một con gà và nướng nó trong lò. Buổi trưa, bà gọi chúng tôi... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Khi bà đã làm xong việc, bà gom dụng cụ lại, rồi quì gối xuống trước cây thập giá bằng gỗ, nhưng ngồi trên hai gót chân. Bà chắp hai bàn tay trước bụng như đọc một lời cầu nguyện, nhưng chúng tôi chỉ nghe hầu hết là những câu nguyền rủa: — Cứt... chó đẻ... con heo... quân chết tiệt... đồ súc sinh... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... “Bọn mày thích giết chóc, hả?” “Không, Bà Ngoại, thật ra, chúng con không thích giết chóc. Bởi vì vậy, chúng con phải tập giết chóc cho quen.” ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chúng tôi chẳng được bất cứ ai che chở. Vì thế chúng tôi cũng học cách tự vệ trước những đứa lớn xác. Chúng tôi làm vũ khí: chúng tôi mài nhọn những cục đá, chúng tôi nhồi cát và sỏi vào những chiếc tất. Chúng tôi còn có một lưỡi dao cạo, tìm thấy trong cái hộc trên gác xép, gần cuốn Thánh Kinh. Chúng tôi chỉ cần rút cái dao cạo ra là những thằng to xác liền bỏ chạy... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Trời càng ngày càng lạnh hơn. Chúng tôi lục xới trong hai cái va-li và mặc vào người gần như tất cả gì chúng tôi tìm thấy: vài cái áo cổ chui, vài cái quần dài. Nhưng chúng tôi không thể mang thêm đôi giày thứ nhì bên ngoài đôi giày đi phố đã cũ và thủng lỗ. Nói đúng ra, chúng tôi chẳng có đôi giày nào khác nữa... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Từ đó, chúng tôi đợi ông bưu tá trước cổng vườn. Đó là một ông già đội một cái mũ lưỡi trai. Ông có một chiếc xe đạp với hai cái túi da gắn vào yên sau. Khi ông đến, chúng tôi không để ông kịp rung chuông: rất lẹ làng, chúng tôi tháo cái chuông xe đạp của ông... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Ông thợ đóng giày sống và làm việc trong căn hầm của một ngôi nhà gần trạm xe lửa. Căn hầm đó rất rộng. Ở một góc là cái giường của ông, ở góc kia là bếp. Nơi làm việc của ông hướng về phía cửa sổ dưới tầng hầm... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chúng tôi sẽ mang cho chị mỗi ngày một bó củi. Một ít đậu và khoai nữa. Nhưng, để có các thứ khác, thì phải có tiền. Chúng tôi đã hết tiền. Không có tiền, thì không thể vào một cửa hàng nào cả. Phải mua một thứ gì đó để có thể ăn cắp những thứ khác... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... — Cha chưa bao giờ làm cái gì với con Sứt Môi cả. Thậm chí cha không biết nó là ai. Nó đã kể cho các con những chuyện nó bịa đặt. Những câu chuyện của một đứa nhỏ bị bệnh tâm thần thì không đáng quan tâm. Sẽ chẳng có ai tin lời các con. Tất cả những điều con bé đó nói đều là láo!... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Mọi thứ trên cái bàn này đều là của đất nước chúng tôi: những thức uống, đồ ăn đóng hộp, bánh bít-quy, đường. Chính đất nước chúng tôi nuôi quân đội của ông... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chúng tôi ra đi cùng với cô đầy tớ. Chúng tôi bước theo cô đến nhà cha xứ. Chúng tôi thấy hai bím tóc vàng của cô nhún nhẩy trên tấm áo choàng đen, hai bím tóc dày và dài đến eo của cô. Hông cô đong đưa dưới tấm váy đỏ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Cô hát âm ư trong miệng, nhưng mặt cô đỏ rần lên khi cô biết chúng tôi đang chòng chọc nhìn cô. Cô có cặp vú chắc nịch và nghếch lên như hai quả bong bóng bơm căng. Da cô rất trắng và cô có nhiều lông vàng óng ở mọi chỗ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... — Thế thì các con biết Mười Điều Răn. Các con có tuân theo những điều ấy không? — Không, thưa cha, các con không tuân theo những điều ấy. Không có ai tuân theo chúng cả. Sách viết: "Ngươi chớ giết người" mà ai cũng giết người... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Ông tuỳ phái và cô đầy tớ nằm trên giường. Cô đầy tớ hoàn toàn trần truồng; ông tuỳ phái chỉ còn cái áo sơ-mi và đôi tất. Ông nằm lên trên cô đầy tớ và cả hai người cùng đún đẩy tới lui qua lại. Ông tuỳ phái rên èng ẹc như con heo của Bà Ngoại và cô đầy tớ ré lên, như đang đau đớn... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Dưới đít chúng tôi, giữa hai chân ông sĩ quan, chúng tôi cảm thấy có cái gì nong nóng nhấp nhô. Chúng tôi nhìn nhau, rồi chúng tôi nhìn vào mắt ông sĩ quan. Ông dịu dàng đẩy chúng tôi ra, ông vò tóc chúng tôi, ông đứng lên. Ông đưa cho chúng tôi hai cái roi và ông nằm sấp xuống... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chúng tôi ngủ trở lại. Sau đó, lúc gần sáng, chúng tôi muốn ngồi dậy, nhưng ông sĩ quan giữ chúng tôi lại: “Đừng cử động. Hãy ngủ tiếp đi.” “Chúng tôi cần đi đái. Chúng tôi phải ra ngoài.” “Đừng ra ngoài. Đái ở đây này.” Chúng tôi hỏi: “Ở đâu?” Ông nói: “Đái lên tôi. Vâng. Đừng sợ. Đái đi! Đái lên mặt tôi đi.” ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Người bạn ném khẩu súng lục lên bàn và nói: “Chó đẻ!” Ông sĩ quan mở mắt ra, nhìn người bạn của ông: “Thật là thiếu dũng cảm! Thật là thiếu tính cách!” Người bạn nói: “Vậy thì anh tự bắn anh đi chứ, nếu anh dũng cảm đến chừng ấy, nếu anh sầu khổ đến chừng ấy. Nếu anh không thể sống thiếu nó, thì anh chết theo nó đi chứ...” [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Các ông, một khi mà chiến tranh đã hết, bọn đàn ông các ông đều là anh hùng cả. Chết: cũng anh hùng. Sống sót: cũng anh hùng. Què cụt: cũng anh hùng. Đó là lý do tại sao các ông đẻ ra chiến tranh, các ông, bọn đàn ông. Đó là chiến tranh của các ông. Các ông muốn nó, thì cứ đi theo nó luôn đi. Anh hùng cái lỗ đít tôi đây này!... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Chúng tôi tập tung hứng trái cây: những quả táo, những quả hạnh, những quả mơ. Đầu tiên với hai quả thì còn dễ, rồi ba, bốn, cho đến khi chúng tôi tung hứng được năm quả. Chúng tôi phát minh một loạt những trò ảo thuật lẹ tay với những con bài và những điếu thuốc lá. Chúng tôi cũng tập nhào lộn... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chúng mày, bọn nhà nghèo, chúng mày không nghĩ ngợi điều gì cả ngoài cái bao tử; đó là lý do tại sao chúng mày không bao giờ có tiền; chúng mày tiêu tất cả tiền kiếm được vào xúp và xúc-xích. Chúng mày là những con heo, đúng như vậy... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Còi báo động rú lên bất cứ lúc nào kể cả ngày lẫn đêm, giống hệt như ở Phố Lớn. Người ta chạy tìm chỗ nấp, trốn vào những hầm rượu. Trong những lúc ấy, đường sá vắng ngắt. Thỉnh thoảng có những ngôi nhà và hàng quán để cửa mở. Chúng tôi lợi dụng cơ hội để chui vào và lặng lẽ ăn trộm những gì chúng tôi thích... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Không ai nói, không ai khóc; những đôi mắt của họ nhìn đăm đăm xuống mặt đất. Chúng tôi chỉ nghe tiếng gót giày đinh của những người lính... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Từ nhà cha xứ, chúng tôi chạy đến nhà ông thợ đóng giày. Những cánh cửa sổ vỡ nát; cửa lớn bị xô sập. Bên trong, tất cả đều bị xới tung lên. Trên các bức tường là những hàng chữ tục tĩu... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chúng tôi trèo lên gác xép bằng một sợi thừng. Ông cảnh sát mở cái rương nơi chúng tôi đựng những đồ dùng cần thiết cho việc học: cuốn Thánh Kinh, cuốn từ điển, giấy, bút chì, và Cuốn Sổ Lớn trong đó mọi chuyện được viết xuống... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chúng tôi không còn mở mắt được nữa. Chúng tôi không còn nghe gì nữa. Thân thể chúng tôi bê bết mồ hôi, máu, nước đái, cứt. Chúng tôi ngất đi... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Chúng tôi nằm trên nền đất cứng của một buồng giam. Qua khung cửa sổ nhỏ có song sắt, một chút ánh sáng hắt vào. Nhưng chúng tôi không biết lúc ấy là mấy giờ, buổi sáng hay buổi chiều... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Ngay sau bữa ăn tối, một ông già bước vào nhà với một cô gái lớn tuổi hơn chúng tôi. Bà Ngoại hỏi ông già: — Ông muốn gì?... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Chị họ của chúng tôi không làm lụng, không học hành gì cả. Chị thường nhìn đăm đăm lên trời, đôi khi chị khóc... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Bà Ngoại ngồi trước bàn trang điểm, soi mình trong gương. Trên đầu bà, phía trên tấm khăn choàng đen, bà đã đính một vật gì lấp lánh. Quanh cổ bà có vài sợi dây chuyền, hai cánh tay bà mang đầy những vòng xuyến, những ngón tay bà đeo đầy những chiếc nhẫn. Bà vừa ngắm mình trong gương, vừa nói một mình... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chị họ của chúng tôi đi cùng với một người con trai. Chúng tôi theo dõi chị. Họ đi vào những con hẻm quanh toà lâu đài, biến mất sau một bức tường tróc lở. Chúng tôi không thấy họ, nhưng chúng tôi nghe họ nói. Chị họ của chúng tôi nói: — Nằm lên em đi. Ừ, vậy đó. Hôn em đi. Hôn em đi... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chúng tôi không nói gì cả. Ông hỏi: “Cha ban phúc lành cho các con được chứ?” “Nếu Cha muốn.” Ông đặt hai tay lên đầu chúng tôi: “Lạy Đức Chúa Trời Toàn Năng, hãy ban phúc cho con cái của Ngài. Dù chúng phạm tội gì đi nữa, hãy tha thứ cho chúng. Những con chiên đáng thương đã đi lạc đường trong một thế giới khủng khiếp...” [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Có những người đi tỵ nạn bằng chân, vác túi đồ trên vai; những người khác đẩy những chiếc xe đạp chất đầy các vật dụng: một tấm chăn, một chiếc vĩ cầm, một con heo sữa trong lồng, những thứ nồi niêu xoong chảo. Những người khác ngồi trên những chiếc xe ngựa: họ chở theo tất cả đồ đạc của họ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Những đống đen ngòm mà khi nãy chúng tôi thấy từ trên cao là những đống xác người chết cháy. Vài xác đã cháy hoàn toàn, chỉ còn những khúc xương. Những xác khác chỉ nám đen. Có rất nhiều xác như thế. To và nhỏ. Người lớn và trẻ con. Chúng tôi nghĩ bọn chúng đã giết họ trước, rồi chất xác họ thành đống, tưới xăng lên và châm lửa... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chúng tôi nhìn Mẹ. Ruột đổ ra khỏi bụng bà. Bà đỏ ối từ đầu đến chân. Đứa bé cũng thế. Đầu của Mẹ ngả xuống cái hố nơi trái lựu đạn nổ. Đôi mắt Mẹ mở lớn và còn đầy nước mắt... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chị ôm lấy chúng tôi, ghì thật chặt: “Tôi không hôn hai cậu đâu, tôi biết hai cậu không thích thế. Đừng làm gì dại dột quá nhé, hãy cẩn thận.” Chị ôm chúng tôi chặt hơn nữa, chị khóc... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Những người lính cũng uống rượu và quay trở lại các ngôi nhà nhưng, lần này, để kiếm đàn bà. Khắp mọi nơi có tiếng súng bắn và tiếng gào khóc của những người đàn bà bị hiếp dâm... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Sứt Môi nằm trên giường. Nó trần truồng. Giữa hai cái chân dang ra của nó có một vũng máu và tinh dịch đã khô. Mí mắt nó nhắm nghiền, cặp môi nó cong lên trên hàm răng đen thành một nụ cười vĩnh viễn; Sứt Môi đã chết... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Mọi sự phê phán hay đùa giỡn đối với những người Giải Phóng hay đối với chính quyền mới đều không được phép. Chỉ thốt ra một lời chỉ trích, bất cứ ai cũng có thể bị bắt giam không cần qua thủ tục, không cần phải xét xử. Có những người đàn ông và những người đàn bà biến mất mà không ai biết tại sao, và gia đình của họ sẽ không bao giờ còn gặp lại họ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
Vào mùa thu, tất cả trẻ con đều trở lại trường học, trừ chúng tôi. Chúng tôi nói với Bà Ngoại: “Bà Ngoại, chúng con không bao giờ muốn đi học nữa.” ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Chúng tôi cũng có thể lấy cái vườn nho của bà mà không cần đổi cho bà cái gì cả. Và đó là điều chúng tôi sẽ làm nếu bà không chấp nhận lời đề nghị của chúng tôi. Quân đội cần sử dụng miếng đất của bà. Đó là nhiệm vụ đối với tổ quốc, và bà phải thi hành... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Ông y sĩ ra đi. Chúng tôi nấu một món xúp nước cốt rau đậu và đút cho Bà Ngoại ăn bằng một cái muỗng nhỏ. Khi đêm xuống, phòng bà có mùi rất hôi hám. Chúng tôi giở tấm chăn của bà lên: chiếc chiếu rơm của bà đầy cứt... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Bọn mày không biết toàn thân bại liệt là thế nào cả. Thấy tất cả, nghe tất cả, mà không cử động được. Nếu bọn mày không làm được cho tao một việc nhỏ như vậy, thì bọn mày đúng là lũ vô ơn, lũ rắn rít mà tao đã uổng công nuôi nấng... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... Ông nhìn chằm chằm vào hai bộ xương. Mặt ông đầm đìa mồ hôi, nước mắt, và nước mưa. Ông leo ra khỏi cái hố một cách đau đớn và bỏ đi không hề ngoái lại, hai bàn tay và quần áo ông dính bùn bê bết... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 
... — Vì sao? — Bố không biết. Chẳng có lý do gì cả. Bố là một cá nhân bị tình nghi về chính trị. Bố không được phép hành nghề chuyên môn của mình. Bố bị theo dõi liên tục. Người ta thường xuyên lục soát chỗ ở của bố. Bố không thể nào sống trong đất nước này nữa... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021