thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Niềm vui hụt hẫng
 
Bản dịch của Nguyễn Đăng Thường
 
 
 
TCHICAYA U TAM’SI
(1931-1988)
 
Tchicaya U Tam’si (tên thật là Gerald Felix Tchicaya) sinh năm 1931 tại Mpili gần Brazaville (Congo). Năm 1946, khi cha của ông đắc cử chức nghị viên đại diện cho Congo trong Quốc Hội Pháp, ông theo cha sang Pháp. Năm 1960, U Tam’si hồi hương, tiếp tục nghề viết báo và có liên hệ với Patrice Lumumba, lãnh tụ cách mạng của một quê hương tan rã sau thời lệ thuộc Bỉ, nay đã thực sự tả tơi vô phương cứu chữa. Năm 1961, U Tam’si trở lại Pháp làm việc cho UNESCO, và qua đời năm 1988 tại Bizancourt, gần Paris.
 
Như thơ David Diop, thơ U Tam’si sử dụng thoại ngôn, bình dân nhưng tinh tế, châm biếm, đậm chất hài đen sâu sắc, đôi khi siêu thực, phản ánh và thể hiện không chỉ riêng thực tế của châu Phi mà còn của thân phận con người, xoáy vào cái “thẳm đen-bí ẩn” (dark-ness), góp phần hình thành ý niệm “phong cách da đen” (négritude - chấp nhận và hãnh diện về sự “đen đúa”) trong thơ ca của Léopold Sédar Senghor và Aimé Césaire, tất nhiên là phải sau Langston Hughes, người tiên phong
 
Tác phẩm của U Tam’si gồm những tập thơ: Le Mauvais Sang (1955), Feu de brousse (1957), À triche-coeur (1958), Epitomé (1962, và cuốn này đoạt giải thưởng lớn cho thơ tại Festival des Arts Nègres at Dakar năm 1966), L’Arc musical (1970), Selected Poems (1970, xuất bản bằng tiếng Anh), và La veste d’intérieur suivi de Notes de veille (1977); tập truyện ngắn: La main sèche (1980); ba cuốn tiểu thuyết: Les Cancrelats (1980), Les Méduses, ou les orties de mer (1982), và Ces fruits si doux de l’arbre a pain (1990); ba vở kịch: Le Zulu (1976), Vwène le fondateur (1977), và Le Destin glorieux du Maréchel Nnikon Nniku, prince qu’on sort (1979); và một bộ sưu tập gồm hơn 100 huyền thoại Phi châu: Légendes africaines (1968).
 
Nguyễn Đăng Thường
 
__________
 
 
Niềm vui hụt hẫng
 
 
Nước của những con sông hát trong đầu tôi
lũ cóc ngất ngây ngáp
vì tôi đã cứu được người yêu
 
người ta đối chọi tôi với những chòm sao kỹ thuật
và người ta tham khảo chúng
 
cây bần cũng như những cây lệ liễu
không có bài thơ của những ngọn lửa nhân tạo
 
ý thức
tôi ráng cứu lấy bản thân
và mở rộng thế giới
bằng chiều kích đôi tay mình
 
nhưng còn sự vẩn đục của những ngọn lửa
những ngọn lửa do bàn tay con người đúng thế
 
 
tôi đã thầm nhủ từ xưa
rằng bài hát phản kháng đẹp nhất
là bản hùng ca của lũ cóc
khi mặt trăng tròn vo vì gió bấc
thế mà ta vẫn phải hợp xướng
với con người
 
đúng vậy
con sông của tôi — một định kiến —
chỉ đẹp dưới ánh trăng mà thôi
và tôi đã lấy đá ném nó để thấy
mình không biết phóng qua
chỉ cầu vòng mới có thể băng qua
 
hai bờ của nó
những con sông khác tụ về
tựa các ngón
bàn tay xoè những tĩnh mạch
có trái tim sũng ướt
nhưng chúng đã không biết chờ
đến lúc tôi chìa bàn tay mình ra
của chính tôi tôi quyết đổ máu
cho chúng được sống hạnh phúc trong nhà
 
 
từ đấy ngày là những dây mơ rễ má
nơi tôi đọc được nỗi muộn phiền tôi dẻo mềm
 
hai tay tôi quanh dòng sông
thành cái đọi tốt
nhưng người ta đã đánh lạc những mái dầm nơi đâu
 
kota không còn thích téké
kété không còn ưa vili
vili tảng lờ kassai
chúng có đạo chúa
liên hệ chúng với la mã
dọc theo con sông
đơn độc một ngọn núi
sau khi ngôi sao cuối cùng đã tắt lụn
đang hoài công
thức canh
nhưng vẫn còn bước nhảy vọt ra biển
 
cướp phá biển
 
 
tôi đã chiêm bao giấc mơ ấy
                                                 với cầu vòng
theo chiều kia của con sông
xoãi
đó là cái vòng mầu nhiệm
của những đêm thức canh chậm
                                 những người chết bên ta
 
nhưng mà không
                              trước biển
                                                   bọt sóng tràn
tới họng
                    con sông
                                          hãy nghe tiếng mõ
congo
 
 
môi trường của nó một ngọn cỏ công bằng
giữa những bụi cây gai
bầu trời của nó là cái nhìn của nó
cho những kẻ đã sống
họ đã sống đông đúc
những dây leo liên lạc những trái tim
 
 
rồi một khúc hát trỗi dậy
      hãy nâng nỗi căm hờn lên
      đúng mức tình cảm người của nó
      hãy đốt nhựa cây hăng máu
      cây sẽ chín muồi bông hoa của nó
      sống giữa gai góc là chết
      không nơi đâu có niềm vui
      ấy sự va chạm của những hôn hoàng
 
 
họ đã sống đông đảo
môi trường của nó một cọng cỏ công bằng
nhưng người ta đã đánh lạc các mái chèo của tôi
tận chốn nao
 
 
-------------
Nguồn: “La joie manquée” (Feu de brousse) trong tuyển tập của Tchicaya U Tam’si, Le mauvais sang suivi de Feu de brousse et À triche-coeur (Honfleur / Paris: Pierre Jean Oswald, 1970).
 
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021