|
Tấm thảm thêu trống không | Sương lạnh đỏ mặt kính | Tranh thảm gia đình | Chuyện trò giả bộ
|
|
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
ADAM ZIEMIANIN
(1948~)
Adam Ziemmianin sinh năm 1948, là một trong những nhà thơ, nhà báo nổi tiếng hoạt động năng nổ không chỉ trong các lĩnh vực văn chương, mà cả trong âm nhạc trình diễn. Sau khi được đào tạo làm nghề dạy học ở Kraków, ông theo học ngôn ngữ Ba Lan ở Đại học Jagiellonian và khởi sự làm báo năm 1977. Bài thơ đầu tiên của ông xuất hiện năm 1968, sau đó ông cho ấn hành khoảng hai mươi tác phẩm, trong số có mười lăm tập thơ được nhiều người biết: Wypogadza się nad naszym domem [1975], Pod jednym dachem [1977], Nasz slony rachunek [1980], W kącie przedzialu [1982], Makatka z plonącego domu [1985], Wiersze dla Marii: poezje [1987], Zdrowaś Matko - Laski pełna: poezie [1987], Dwoje na balkonie [1989], Boski wieczorny mlyn [1990], List do zielonnej ścieżki [1995], Dom okoliczności lagodzacych [1996], Ulica Ogrodowa [1996], Nosi mnie [1997], Plac wolności [1999], Na glowie staję [2002]... không kể một tuyển tập thơ ấn hành năm 1998. Thơ Ziemianin được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Đức, Ý, Nga... và từng xuất hiện trên nhiều tuyển tập thơ Ba Lan hiện đại, đặc biệt được phổ biến qua nhiều ca khúc do những nghệ sĩ hàng đầu ở Ba Lan như Elzbieta Adamiak, Jacek Wójcicki, Ola Maurer trình diễn. Ziemianin hiện sống tại Kraków, và ngoài những hoạt động văn hóa [ông là Phó chủ tịch Chương trình Muszyna Almanac Scholarship Committee ở Ba Lan, chuyên giúp đỡ những tài năng trẻ từ các trường nhạc] ông làm cho báo Gazeta krakowska ở Kraków, và là một trong những người đoạt nhiều giải thưởng văn chương quan trọng của Ba Lan.
Tấm thảm thêu trống không Làm sao em không có mặt
trong thành phố nóng bỏng này
mỗi bước ta đi
chạm vào sự vắng mặt của em
tàu điện vừa rung chuông
và nhắc nhở ta
còn bốn trạm nữa
mới đến ga
nơi em xuống tàu
ngọn đèn xanh qua đường
là dấu vết duy nhất
của chiếc áo
em mặc
hôm qua
Sương lạnh đỏ mặt kính họ đã nhìn thấy nó bao nhiêu lần rồi
họ không còn để ý nữa
núi vẫn hiên ngang đứng thẳng
cuộc đời của họ cứ cúi mãi xuống đất
trời đã về khuya
trên mặt bàn có một ngân phiếu cấp dưỡng
một lá thư mở toang gửi cho con trai họ
và một ván cờ solitaire chơi dở
bà bảo
hãy mở đài ra nghe
có lẽ họ sẽ nói điều gì chăng
ông trả lời
để làm gì? cái gì cần biết tôi đã biết
hai người nhìn qua cửa sổ
và mùa đông chuyển động rất chậm với họ
sau cửa sổ là những người ca hát Giáng Sinh
nhưng trong số họ chỉ Thần Chết là có thật
Tranh thảm gia đình Người đàn bà đứng sau,
với cái nhìn ấm áp trong đôi mắt,
là mẹ tôi
(quả thật, toàn tấm tranh thảm
phải để kính dâng người)
và người đàn ông mặc bộ đồ tây màu sáng,
lỗi thời ngay từ buổi ban đầu,
với cái nhìn nghiêm nghị trong đôi mắt,
là cha tôi
ở chính giữa — tôi,
ngay sau buổi rước lễ vỡ lòng,[*]
đang đi tìm chính mình với một ngọn nến
hắn ta sẽ ra sao khi lớn lên
hãy cứ hỏi cái phần tôi vô tích sự
câu trả lời đồng thanh vang lên
trong đôi mắt lạnh lùng của cha tôi
Chuyện trò giả bộ giả bộ tôi nhìn thấy hắn giả bộ tôi quen hắn
giả bộ hắn không thay đổi
mặc dù thời gian vẫn cứ trôi qua
giả bộ chúng tôi chào nhau giả bộ hắn hài lòng
giả bộ một con người ân cần đưa mắt nhìn
từ gương mặt hắn
giả bộ mọi chuyện đều OK
xe hơi vợ con đầy đủ
đứa nhỏ nhất ở nhà trẻ
giả bộ hắn cũng hiểu được tôi
và nói to lên như thế
chúng tôi từ biệt nhau rất ư nồng nàn
tựa như chẳng hề có vấn đề gì
-----------
“Tấm thảm thêu trống không”, “Sương lạnh đỏ mặt kính”, “Tranh thảm gia đình” và “Chuyện trò giả bộ” dịch từ các bản tiếng Anh “Empty Tapestry”, “Frost Blushes the Glass” và “Family Tapestry” của Aniela Gregorek trong Adam Ziemianin, A Weaver From Radziszów (PM Publications Chap Books, 1997) và “Make-Believe Conversation” của Zbigniew Joachimiak, David Malcolm và Georgia Scott trong Dreams of Fires - 100 Polish Poems 1970-1989 (Poetry Salzburg, 2004).
_________________________ [*]Lễ ban thánh thể. |