thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Hồi ký

 

Trước năm 1781, Immanuel Kant viết Phê phán lý tính thuần túy.

Cứ cho là lúc ấy cha tôi đang làm phụ bếp trên tàu. Khói làm nước mắt ông ứa ra. Sau này trong hồi ký ông viết rằng ông đã khóc vì nhớ nhà nhưng tôi biết ông khóc vì khói. Cha tôi bị viêm xoang nên thường sổ mũi. Ông có hai chiếc khăn mùi soa. Một chiếc mẹ tôi tặng khi ông còn học ở quê nhà (thời đó cha và mẹ tôi thường trốn học để ra ngoài bờ sông bắt những con bướm về ép vào trong những trang sách, và chiếc khăn mùi soa đó bà tặng ông để ông nín khóc khi ông giẫm phải một cái gai nhỏ lúc hai người cố nhảy qua một con mương lớn) và một chiếc ông lượm được trên quảng trường vào ngày 14 tháng 7.

 

Năm 1896 Freud nói rằng con người có thể tìm thấy mình trong những giấc mơ. Lúc ấy người ta cảm thấy mình bị xúc phạm. Nhưng thực ra ông ấy là một thiên tài. Về bản năng ông ấy nói rằng có hai loại bản năng: bản năng tính dục và bản năng chết.

Không thể xác định thời điểm cha tôi bước lên tàu. Nhưng chắc chắn là ông sợ chết. Trên tàu, cha tôi làm phụ bếp và xúc than để kiếm thêm tiền. Trong hồi ký cha tôi viết rằng lúc ở trên tàu ông đã có bảy mươi lần say sóng và có tới bốn mươi lần nôn oẹ. Ông sợ chết và đôi khi ông cũng là một người hoang tưởng. Ông viết: Giấc mơ hoàn toàn không có hình dạng và nó không phải là vật chất. Cũng có thể cha tôi không hề bước lên tàu nhưng cũng có thể ông ấy là thuyền trưởng. Thú thật, tôi có hoài nghi về việc ông ấy làm phụ bếp.

 

Năm 360 trước Tây lịch, Démocrite nói rằng trong vũ trụ chỉ có nguyên tử và hư không.

Thậm chí có thể cha tôi bước lên tàu trong thời điểm này. Bởi trong hồi ký ông có nói tới nguyên tử và hư không. Tất nhiên ngôn từ của ông không rối rắm như Démocrite.

 

Ngày 22 tháng giêng năm 1561, ở York House, Francis Bacon ra đời. Sir Nicholas Bacon đã khóc rống lên vì vui sướng bởi ông nhìn thấy rằng rồi đây ông sẽ bị vùi đi trong hoàng hôn bởi chính sự vĩ đại của con trai mình.

Cha tôi đã từng là bằng hữu với Francis Bacon. Nhưng có vẻ hai người không hợp với nhau cho lắm. Đó là theo những gì ông viết.

 

Sau năm 1813, khi luận án “Về bốn cội rễ của lý trí túc lý” hoàn thành, Schopenhauer bắt tay vào viết Thế giới kể như Ý dục và Biểu tượng.

Cha tôi viết trong hồi ký rằng ông đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng Thế giới kể như Ý dục và Biểu tượng. Mẹ tôi nói điều đó là bất khả. Cha tôi rất nhớ món ruốc và những bát tiết canh của quê nhà. Trong thời điểm này, nếu chúng ta có thể bỏ qua những gì cần truy xét thì cứ tạm cho rằng cha tôi làm phụ bếp trên tàu là một điều khả tín. Ông hút thuốc khi mệt và đói.

 

Vào năm 1879, Nietzsche ngã quỵ. Ông viết thư cho em gái: “Hãy để ý, đừng cho một linh mục hay bất cứ ai khác thốt ra những lời bá láp bên mồ anh, khi anh không còn có thể tự bảo vệ, hãy để anh đi xuống mồ nguyên vẹn là một đứa vô thần chân chính.”

Thời điểm này tre ở quê đang vào mùa lên măng. Trên tàu cha tôi vẫn rít thuốc và thoá mạ Nietzsche. Ông nói rằng Nietzsche là một kẻ đáng khinh. Tối, cha tôi xúc than tới 12 giờ khuya. 2 giờ sáng ngày hôm sau ông dậy và tranh thủ viết thư cho gia đình. Người trong làng bảo cha tôi láu cá bởi họ biết rằng thực ra cha tôi chưa hề lên tàu và làm thơ trên đó.

 

Năm 1858 lần đầu tiên cha tôi thấy những con tàu bằng sắt. Nhưng theo những gì ông viết trong hồi ký thì lúc này chính ông lại đang lênh đênh trên biển.

Thực ra cha tôi đã từng là một vũ công. Nhạc nào ông cũng có thể nhảy được.

 

Vào thập niên 1930, Federico de Onis đưa danh từ postmodernism vào văn bản.

Năm 1930, sau khi cha tôi hút xong hai điếu thuốc và ngốn hết ba hộp thịt đông, ông ngủ trên boong tàu. Cũng có thể lúc ấy ông đã bị trục xuất khỏi tàu và đang lang thang ở đâu đó.

Ông có nhắc tới cái gọi là những simulacra. “Chúng rất tầm phào. Chúng rất giả tạo.” Ông viết.

 

Năm 1945, mẹ tôi mang về hai bao gạo dính đầy bùn đất. Bà nói bà cướp được của Nhật chứ thực ra tôi biết bà ăn trộm của người ta trong cuộc loạn lạc. Sau bữa tối mẹ viết thư cho cha tôi, kể với ông về chiến tích đó của bà.

Mắt bà rực sáng.

 

Năm 1976 mẹ tôi mang về nhà bốn bó hoa. Bà nói người ta tặng bà nhưng tôi biết bà nhặt ngoài đường cái. Tôi cũng đã nhặt được những bó hoa tương tự, thậm chí còn tươi rói hơn. Lúc này mẹ tôi cũng không biết cha tôi đang ở đâu. Có thể ông vẫn còn ngủ trên tàu. Tay ông đang nắm chặt một ổ bánh mì nào đó. Điều đó hoàn toàn có thể xảy ra.

Không biết cha tôi có gặp cái lão già bặm trợn đó thật không, hay cũng chỉ là những lời đồn đại.

 

23 giờ, ngày 09 tháng 5 năm 2012, trong khi Lerusam viết Hồi ký thì cha tôi vẫn đang ở trên tàu. Cũng có thể ông chưa bao giờ lên con tàu đó và cũng có thể giờ này ông đang ngủ say trên tàu; cũng có thể giờ này ông đã chết; cũng có thể giờ này ông đang hút thuốc và cũng có thể giờ này ông đang đánh bài, tán gái; cũng có thể giờ này ông đang nghiên cứu; cũng có thể giờ này ông đang bị cảm hàn; cũng có thể giờ này ông đang sổ mũi (ôi, cái chứng viêm xoang tai hại ấy); cũng có thể giờ này ông đang nấp trong những cuốn sách; cũng có thể...

Cha là cha tôi và không có gì thay đổi thì tất nhiên tôi là con trai ông ấy, nhưng mọi người luôn mồm phủ nhận điều này khiến tôi điên máu.

 

Bây giờ là 23 giờ 03 phút, ngày 09 tháng 5 năm 2012. Mẹ tôi đang hục hặc ho trong màn.

“Không rõ được đâu.” Bà đang nói.

“Tắt đèn ngủ đi.” Bà đang nói.

 

 

--------------

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021