thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Kalima
Bản dịch Nguyễn Thu Hồng

 

J.-M. G. LE CLÉZIO

(1940~)

 

KALIMA

 

Ôi Kalima, em đã đi theo con đường nào đến tận ngày tháng Giêng 1986 này, ngày em nằm xuôi tay trên mặt đá hoa lạnh của nhà xác, phủ một tấm vải ép sát vào những phần lồi lõm trên thân thể em, và che mất khuôn mặt em cho đến trán, chỉ để lộ mớ tóc em đen huyền, dày, gợn sóng, tóc vẫn còn sống, và đôi bàn chân đều đặn của em, móng chân thoa màu đỏ son, với một miếng nhựa buộc vào mắt cá chân trái em bằng một khoen dây sắt, mang tên em, tuổi em, gốc gác, và ngày mất của em, một ít chữ và số mà người ta biết về em?

Ai còn nhớ đến em, khi em xuống tàu, ở bến cảng Marseille? Trời hôm ấy lạnh, và có lẽ em đã mặc tới hai chiếc áo len chồng lên nhau, bên dưới cái áo mưa, đi trong cơn mưa rất nhỏ đổ xuống cảng và những dãy nhà quan thuế. Cách đây vừa mới được hai năm, mà với em thì là cả một thiên thu, hai năm dài đễn đỗi nó có thể đã kéo dài trọn cả một đời người, và đến đỗi lần đến ấy trên bến cảng, trong sương mù, đã tan biến mất, lẫn vào với những năm đầu của cuộc đời em, xa mãi tận bên kia bờ đại dương.

Cái thành phố lớn trắng xóa này, nằm bên bờ biển, với tiếng ồn trên đường phố, chuyển động của đám đông, những phiên chợ nhóm giữa trời nơi trẻ con và những bầy dê đi tán loạn, những ngã tư chật ních xe tải, xe ba gác, xe taxi, mùi thức ăn, mùi dầu nóng, cá nướng, mùi trái cây đang ung thối.

Bấy giờ, trong cái lạnh của con đường chạy dọc theo biển này, với những xe ôtô, hàng ngàn chiếc ôtô đi ngang qua trước mặt em, đôi khi hẳn là em còn nhớ những cái nhìn thoáng của đám đàn ông, tiếng máy xe. Thỉnh thoảng, một chiếc xe chạy chậm lại; và em nhìn theo, sau đó nó quẹo sang phải trên đường X..., và vài phút sau nó lại trở lại trước mặt em. Tất cả những thành phố chẳng phải là giống như nhau hết đó sao? Đó là những con đường, những ngã tư, những xe cộ đi tới, những cái nhìn tìm kiếm.

Mùa đông với em thật là khắc nghiệt. Em phải mặc hai áo lạnh chồng lên nhau, có khi ba áo, áo dày, len thứ thật, cổ cao. Trên tất cả các áo khác, em có chiếc áo tròng đầu bằng len lông dê màu tím than, với cái cổ rộng cuộn tròn, hơi hở một tí, và làm cho da em có cái màu da hổ phách và nóng, màu bánh bột có gia vị, như anh bạn Bruno của em vẫn bảo. Bruno là dân quần đảo Antilles. Da anh ta một màu đen gần như xanh, và anh ta lúc nào cũng cứ cười cái chuyện em, người châu Phi, da em lại trắng hơn da anh ta, và tóc em thì quăn, dài và dày đặc, loại tóc của người Thổ dân.

Bởi vì mẹ em là người Cam bốt, em có nói như thế với Bruno. Và trước đó, có lẽ còn đi qua một người da trắng, một tay buôn người Tây ban nha, hay một người Bồ đào nha có lẽ. Anh ta thích đọc nơi em tất cả những gì có thể có, anh ta đích thật là người bạn lòng của em, anh thích tìm ra trên da em tất cả những gì đến từ những nơi tận cùng thế giới, từ Trung quốc, từ tận cùng châu Phi, và cả từ châu Âu lạnh lẽo nữa, ở đôi mắt trong suốt của em, ở cái dáng mảnh mai của cổ em. Anh ta làm nhân viên bệnh viện. Có lẽ anh ta đã có mặt tại đấy, khi em đi vào, chỉ một lần và là lần duy nhất, nằm trên cái băng ca lăn, với chỗ máu đã khô trên ngực em, đóng thành một mảng đen làm dính hai chiếc áo lạnh với nhau. Có lẽ anh ta đã nghe được những lời đùa cợt của các sinh viên y khoa nội trú, khi mấy người này lột áo quần em hết thứ này đến thứ khác.

Vậy thì bấy giờ không còn là màu hổ phách trên da em nữa, cũng không còn là ánh nắng mặt trời, mà là màu xám mờ đục của cái chết, và màu đen của chỗ máu đã khô lâu.

Chính con đường tuổi thơ em đã trở về trong trí nhớ của em, những ngày tháng cô đơn, những buổi sáng, khi em ngồi uống cà phê ở tiệm bán rượu và thuốc lá đối diện với khách sạn có sẵn đồ dùng. Con đường ấy không xa lắm. Nó chỉ cách đây có ba hay bốn năm, có lẽ một năm nhiều hơn thế. Năm tháng đã trôi qua quá nhanh kể từ khi em đến Marseille, trên chuyến tàu đến từ Tanger.

Từ ấy đến nay đã có bấy nhiêu tiếng động, bấy nhiêu con người. Bấy nhiêu đám đàn ông đã “đi qua trên bụng” em như em vẫn nói, không phải với Bruno, bởi vì anh ta chẳng bao giờ nhắc đến chuyện ấy, mà là với đám con gái ở tiệm rượu Forum, mấy cô Cathy, Gisèle, Mado, Céline, Raïssa, Hélène là dân đảo Antilles, khi các cô tụm lại với nhau dưới ánh đèn néon vào mùa đông, vào giờ các cô uống một tách cà phê trước khi ra đứng đợi bên lề đường. Toàn bộ tiếng động đó, những cái nhìn đó, những ánh mắt bắn ra từ những chiếc ôtô, những tiếng động cơ gầm, và tiếng bánh xe nghiến trên nhựa đường.

Giờ đây trong khí lạnh của nhà quàn, thân thể em bất động, trần truồng, lặng lẽ, nằm dưới chăn vải đã cứng vì ướp đá, đôi mắt em nhắm kín đến đỗi người ta có thể nói là mi mắt bị may lại, và em không còn biết gì nữa trên thế gian này, cái thế gian của chúng tôi, em đi xa theo chiều ngược, như thể em bị đưa đi trên một chiếc bè, trên một con sông đông đá, em đi xa, em tự xóa mình. Bây giờ, thế gian này còn lại gì? Còn kỷ niệm nào của thế kỷ này, của thành phố này? Con đường rộng chạy dài theo bờ biển, bức tường thành các tòa nhà kiên cố kia, những hốc cửa trống không, những bao lơn vắng ngắt có những đám hoa phong lữ lung linh trước gió, những cây dừa bị ăn mòn bởi ôcxyt cacbon, bởi bụi từ biển thổi vào, cái bãi biển mênh mông đầy những đá cuội đều đặn trên đó những con chim mòng biển sợ rét bước đi, và những chiếc xe hơi kia, không rõ tên, cũng không rõ số, chiếc này chen lấn chiếc kia, giống như vảy của một con rắn dài bằng kim loại vừa rung mình vừa không ngừng lướt tới.

Kỷ niệm nào? Cái thành phố trắng nơi em đứng đợi tàu, đứng một mình, giữa những di dân khác, chuyến đi qua trên cầu, trong khí lạnh cuối hè, đến nơi dưới cơn mưa, và người đàn ông ở đồn cảnh sát đưa mắt vừa hỏi em, vừa đọc vào giấy tờ của em, những lá thư bà chị em hiện đang làm việc trong một khách sạn ở Marseille, nhìn mặt bà chị bấy giờ đang đứng bên kia mặt kính, cái thân thể đã ôm chặt em vào lòng, khi hai người bước những bước đầu trong thành phố, dưới mưa, ban đêm, với những tia đèn pha, những tiếng còi xe. Sau đó là thời gian khám phá cái thế giới mới kia, cuộc sống mới kia, công việc của em trong những nhà hàng, trong những tiệm cà phê, cơn lốc tiền bạc, sự cô đơn. Bấy giờ em biết là em đã bị bắt dính, rằng em sẽ không còn có thể ra đi, không còn trở về thành phố của em, trên cái quảng trường ngập nắng, trong những lối ngõ vang vọng tiếng những đài phát thanh, tiếng la hét của bọn trẻ, những giọng khàn đục của gà trống. Có lẽ em còn nhớ, mùa đông năm ấy có tuyết, mùa đông đầu tiên, là lần đầu tiên tay em đụng đến tuyết. Em đã chạy ra đường, hôm ấy là một ngày chủ nhật, em từ căn hộ nhỏ trên đường Génie đi ra, và em đã chạy về phía những trại lính, em đi ngang qua dưới cầu đường xe lửa, và em đã đi đến tận xưởng Thuốc lá, để được nhìn thấy những bông tuyết quay cuồng dưới ánh sáng những ngọn đèn đường. Em rất lạnh, em tròng vào người nhiều áo cái này chồng lên cái kia, và em chạy trên đường phố hoang vắng, để cảm nhận những cụm tuyết chích lên má em, lên mi mắt em. Đấy là lần đầu tiên.

Không bao giờ em có lại được cảm giác này: trẻ, tự do, khám phá tuyết, say sưa vì một thứ rất đơn giản, rất tự nhiên. Tiếp đến chị của em bỏ đi, một ngày nọ cô ấy biến mất, không để lại một chữ, không để địa chỉ, cô ấy cho đồ đạc vào một cái valise và cô từ nhà ra đi, và em trở thành một thân một mình trên thế gian, nhưng giờ đây thì em đâu còn trở lại được, em không còn thoát ra được nữa. Khi em bắt đầu đi chơi với đám đàn ông, đến tiệm rượu, trong khu nhà ga, mọi thứ đã ngừng lại và được viết ra, không cách gì thay đổi được nữa. Những tên ma cô đã nắm được em, chúng đã đánh đập em, chúng đã hiếp em và đánh em trong một phòng khách sạn, chúng đã dí nát tàn thuốc lá của mình trên bụng em và trên vú em, và hành động đã để lại những dấu ấn không sao tẩy sạch được, giống như những bông hoa bị đốt cháy trên làn da màu hổ phách của em, những dấu ấn không tẩy xóa được trong tim em.

Sau lần ấy, không còn gì có giá trị nữa, không còn gì thay đổi nữa, chỉ là những tên đường, những tên tiệm rượu, những phòng khách sạn, bấy giờ đã là cuối mùa đông. Khi trời bắt đầu ấm trở lại, có lẽ em đã thường xuyên hơn mường tượng ra như thế nào, trong cái thành phố màu trắng bên kia của em, những tiếng động và những tiếng la hét trên quảng trường có ngọn gió nóng của sa mạc thổi qua, tiếng gọi của vị thầy báo kinh đạo Hồi trong ánh sáng ửng vàng của buổi chiều hôm, như thế nào những đứa trẻ con chạy quanh co trong các đường hẻm, những con chim, những con ong quanh máy nước. Có thể những thứ ấy đã đến trong gió biển thổi trên chiếc cầu cũ, và em cảm thấy như có một cơn sốt ớn lạnh, quấy rộn cuộc đời dày đặc của em, lướt nhẹ trên lớp da đã cứng, đã mất cảm giác của em. Có phải vì để chạy trốn nó mà em đã rời bỏ thành phố này và vì nó mà em đã đi về phía bắc, đến những thành phố đầy khói, xa xôi, xa lạ, những thành phố khổng lồ nơi có hàng ngàn người như em, những cô gái lạc lõng, những đứa trẻ sa đọa, những con người từ khắp mọi nơi đổ đến và không biết đi đâu, có phải vì để khỏi nghe nói đến bất cứ gì dính dáng đến đất quê của em, đến con đường bụi bặm nơi em từng ra đời, nơi em từng chạy nhảy với anh với chị em của em, để khỏi cảm nhận cái rùng mình ấy, cái lướt thoáng qua ấy? Nhưng chính chúng đã tóm được em, bọn người từng đánh đập, từng hãm hiếp và đem bán em trong những phòng khách sạn, chính chúng đã đưa em đi đến tận cùng thế giới, tới Londres, tới Hambourg, tới Munich. Mỗi ngày, mỗi đêm, mỗi giờ, em đều phải đứng ngoài đường. Trời rất nóng, đám người lảo đảo đi dọc theo hè phố, ép sát quanh những cô gái. Ban đêm, đèn néon đốt cháy những khuôn mặt của họ. Bọn đàn ông đến, chẳng nói một lời, chúng leo lên sau thân người em, chúng đâm sâu vào người em như vào một bị thịt đã chết, rồi chúng ra đi không nói gì, và đồng tiền để lại. Ôi Kalima, có bao nhiêu đàn ông từng biết người em như thế? Và hàng ngàn lần như thế, em không có mặt ở đấy, em đang ở nơi khác, em không nằm mơ, em đang ở trong một thân xác khác. Có thể chính em đã trở về bên ấy, có đôi khi như thế, trở về con đường bụi bặm và đầy ánh nắng, trong căn nhà chật hẹp bằng ván mái tôn uốn sóng nóng rực dưới mặt trời y như tấm sắt trong lò, hoặc trở về cái máy nước có những cô gái vừa dạng đôi chân ốm o của mình vừa lắng nghe tiếng nước chảy vào. những cái xô nhựa. Có thể...

Năm tháng xa dần, biến mất. Bây giờ không còn là em đi trên con tàu, xuyên qua Địa trung hải, về hướng Marseille. Bây giờ là thành phố quê hương em, khu phố của em, những anh em của em, mẹ của em, đứng trên boong một chiếc tàu lớn mênh mông màu trắng và đầy bụi, đang đi xa dần về phía chân trời mù sương, qua phía bên kia thế giới. Ai nấy ra đi, họ đem theo bước chân em ra đời, mang theo tên em và tuổi thơ em, những bí mật, những tiếng cười, những bài ca nghe như tiếng dế trên các đài phát thanh, mùi cà phê và rau ngò, mùi chợ và mùi dê, mùi của đời sống. Họ ra đi, họ rời bỏ em. Một ngày nọ, em đã biết ra điều đó. Em đã nhận ra là em đơn độc, nhưng em không hiểu tại sao. Em đã hiểu ra là em không còn thành phố cũng không còn xứ sở, chỉ có những giấy tờ, giấy phép lưu trú, những tấm thẻ, những biên lai thuê nhà, chỉ có bấy nhiêu. Có thể giống như em chưa bao giờ sinh ra trên đời này, giống như chưa bao giờ em có tuổi thơ cũng chưa bao giờ sống trong một khu phố, chỉ có những giấc mơ. Có thể giống như em đã từng ra đời vào một đêm nọ, tình cờ, trong căn hộ ở đường Génie, một đêm mùa đông khi tuyết quay cuồng quanh những ngọn đèn đường, phía những tòa nhà của xưởng Thuốc lá.

Thế rồi em chạy trốn, em đến thành phố này. Em đến đây bởi lẽ đây là tận cùng thế giới, là trạm cuối, là thành phố hẻo lánh nhất trong vùng biển. Những cô gái ở Marseille, ở Lyon, ở Caulincourt, Paris, ai nấy đều bảo là một ngày kia mình sẽ đến đấy, ai nấy sẽ trốn thoát ra đây và họ sẽ đến vùng bờ biển, và họ sẽ sống một cuộc đời khác. Em cũng vậy em cũng nói như thế, nhưng khi em trốn thoát, em đâu có nghĩ hết mọi thứ. Em đã không nghĩ rằng việc này sẽ thay đổi cuộc đời của em. Theo bản năng, em muốn đi về biển, em muốn được ở càng gần biển càng tốt, tựa như em cho rằng con tàu kia từng đưa em từ Tanger đến Marseille sẽ trở lại, đúng y con tàu đó, và như thế em sẽ có thể đi chuyến đi ngược chiều, trở ngược dòng thời gian gần như ở chân trời và tìm thấy lại những gì em đã mất. Có thể em tin ở điều đó? Có thể em đã lấy chuyến xe lửa từ bắc vào nam, đơn giản chỉ vì không có chuyến nào khác?

Trong thành phố này, cũng vẫn những chiếc xe như vậy lảng vảng, vẫn những cái nhìn như vậy khi em đứng, giữa hai thanh cản ở xe, với ngọn gió tạt vào mặt em. Trời lạnh, và năm chiếc áo len tròng em mặc chồng lên nhau làm cho bộ ngực em có vẻ to lên, cách khác thường. Những bàn tay đàn ông luồn vào dưới lớp áo lông ấy, trên những chiếc ôtô nghiêng ngửa những lưng dựa mất thăng bằng. Ngay cả trong phòng khách sạn AAA, em cũng không cởi mấy cái áo tròng trên người. Cái làm em sợ, ấy là cái lạnh, cái lạnh của gió bên ngoài, nhưng nhất là cái lạnh chun vào phổi và đào một hang phổi, gặm mòn và rứt rỉa. Đấy là chuyện đã lâu, khi em vừa mới tới. Một buổi tối gió thổi trên đại lộ, ở ngã tư đường Réaumur. Trong đêm, gió bắt đầu đi vào người em, trong căn phòng khách sạn, và em không còn sức bước đi nữa. Em nghe tiếng gió trong phổi em, như tiếng lao xao của cát trên bờ biển. Em nghe tiếng lửa đốt và tiếng buốt lạnh trong thân thể em. Tình trạng kéo dài mấy ngày, và một đêm nọ em đã suýt chết, một mình trong phòng. Em cảm thấy cuộc sống đang bỏ đi. Em đập vào vách tường, đập hết sức mình, không la bởi vì em đã không còn nói cũng không còn la được. Rốt cuộc bà ở phòng bên cạnh đến, và người ta đưa em vào nhà thương, một căn phòng lớn trắng xóa. Chính đây là nơi em đã quyết định ra đi. Trong căn phòng lớn đầy giường này, với những người đàn bà xanh xao đang nằm chờ những người mang hoa, mang báo đến. Chính Bruno đã đem thuốc men đến trên một chiếc xe đẩy chở khăn, đĩa các thứ. Em đã nói ý định ra đi với anh ta. Thoạt đầu, anh không biết trước đây em làm gì. Em không muốn nói cho anh ta biết chuyện này, em làm y như trước đây em làm việc ở đâu đó, trong một bệnh viện, ở Salpêtrière, chẳng hạn. Khi anh ta biết, anh đã đánh đập em, nhưng anh không bỏ đi. Anh vẫn đến thăm em ở khách sạn, hoặc thỉnh thoảng chính em đến nhà anh ta, buổi tối. Và rồi một ngày nọ em bỏ đi với anh ta, cả hai cùng đi xe lửa, đến tận cái thành phố tận cùng thế giới ấy. Tựa như mọi chuyện sắp sẽ thay đổi, và em có thể tìm thấy lại những kỷ niệm của thành phố của em, của cái máy nước, ngôi nhà nơi mẹ em kho cá và nấu cơm. Nhưng không có gì thay đổi. Chỉ đơn giản, là ở đây, khi em về nhà, trong chung cư số chín đường đến sân bay, có Bruno đứng đợi em. Anh ta nghe nhạc của hòn đảo mình, trong một cuộn băng từ. Anh có một người bạn đấu quyền anh đến chơi nhà cùng với cô bồ tên là Josèphe. Không ai còn đánh đập em, không ai lấy tiền trong túi xách của em. Còn em, em đã đến gần biển hơn. Em không nhìn biển, bởi vì buổi sáng không có gì đẹp cả, còn buổi tối, thì cũng chẳng có gì khác hơn con rắn bằng kim loại những xe cộ chạy lướt qua mặt em.

Đấy là mùa đông tự do đầu tiên, có lẽ. Em nghĩ đến những gì sắp thay đổi, trong khi em rước khách trên đại lộ gió thổi, một nơi chốn, một chỗ nương náu, xa tiếng ồn, xa đường cái. Không phải là thành phố của em, bởi thành phố ấy đã vĩnh viễn biến mất rồi. Một nơi chốn, chỉ có thế, một căn hộ thực sự của riêng em, ở đó em sẽ có thể ngủ. Sẽ không ai nhìn thấy mặt em nữa. Em sẽ không chờ đợi gì nữa, em sẽ không còn cần ai nữa. Bruno, có lẽ? Nhưng đàn ông đều chỉ là những kẻ qua đường, và em biết là anh ta sẽ ra đi, một ngày kia anh sẽ trở về nhà, phía bên kia đại dương, ở xứ sở của âm nhạc của anh ta. Em đã nghĩ, nhưng dù sao. Em đã nằm mơ. Ở bên ấy, là một ngôi nhà, một mảnh vườn, những giọng nói trẻ con, ánh sáng lấp lánh trên những ngọn sóng biển, mùi trái cây, những con cá quẫy trong chảo dầu nóng. Chưa bao giờ em dám nói ra điều này. Khi anh chàng đấu quyền anh đến, và họ nói chuyện với nhau bằng thứ ngôn ngữ kỳ cục ấy, em nhận ra ngay là không thể có chuyện này, không bao giờ em sẽ theo Bruno về bên ấy. Một ngày nọ, em khóc trong phòng của mình, em đã uống rượu vang và em khóc. Anh ta nhìn em, anh ta nói: “Em làm sao vậy? Em điên à?”. Không bao giờ em có thể nói là em muốn đi theo anh ta, về bên kia. Những cô gái đứng đường không có tương lai. Điều này thì thật tình em không biết. Con tàu lớn đi lùi về phía sau đã lên đường mang theo anh ta tất cả, cái chỗ thành phố của em với những đứa trẻ vừa chạy vừa la hét, những mùi vị, những bài nhạc, tất cả những con người cái nhìn ai cũng đọc được, con tàu ấy không chỉ đã lấy mất sự có mặt trên đời này của em và quá khứ của em, Kalima ạ. Nó đã lấy đi cả tương lai của em.

Trên cái đại lộ khủng khiếp có gió mùa đông thổi vào kia, những chiếc xe hơi đến, rồi đi. Giờ khắc không còn là chuyện có thật nữa. Giờ khắc là gì, khi người ta làm tình với một người đàn ông mà người ta không yêu, để lấy tiền của người ấy? Một buổi tối, một tên trong bọn đã mang định mệnh cho em. Có thể hắn đã đi bộ đến. Hoặc là hắn bước từ ôtô xuống, trong khi một tên khác đang chờ hắn. Hắn bước về phía em, không vội vàng. Em không nhìn thấy mặt hắn vì ánh đèn đường phía sau hắn. Một người đàn ông. Hắn đi về phía em, tựa như hắn muốn đưa em đi, như hắn là một khách hàng. Chắc hẳn em đã có nói gì với hắn, hoặc em chỉ quay về phía hắn, với bộ ngực căng phồng vượt lên giữa đám xe cộ dừng lại. Hắn đâm em từ dưới lên trên, một nhát thật dữ, và bởi vì năm lớp áo len quá dày, con dao không đâm sâu vào ngực em, và em đã hét lên. Những chiếc ôtô tiếp tục đi qua phía sau em, con rắn dài bằng kim khí mù quáng và không biết suy nghĩ. Thêm nữa, rồi thêm nữa, người đàn ông đâm em, mạnh đến nỗi người em gập xuống, và lần thứ ba thì con dao đã xuyên qua năm lớp áo tròng đầu và đã cắm vào tim em. Sau đó cảnh sát tới, và tiếp theo là xe cứu thương đưa em vào bệnh viện, nhưng bấy giờ em không còn sống nữa, em đã rời khỏi thân xác em và nửa thân trên của em nơi những lớp áo len vô dụng đã đẫm máu em. Giờ đây, thành phố này, những con đường này, và toàn bộ thế gian này không còn cần đến em nữa, ôi Kalima. Em đã đi khỏi nơi này, và em đã để lại cả thế giới này trong trật tự của nó, trong mưu đồ của nó, cái thế giới mà những quảng trường cứ tiếp tục ồn ào, với những máy nước và những cô gái, và những tiếng gà trống gáy và tiếng chó sủa, và bụi bặm không ngớt tung lên rồi rải xuống, tung lên rồi nằm yên nghỉ. Thế nhưng em, em không còn ở đấy nữa.

 

Dịch từ nguyên tác tiếng Pháp, "Kalima",
trong tập truyện diễm tình của Jean-Marie Gustave Le Clézio,
Cœur brûle et autres romances
Nxb. Gallimard, Paris, 2000.

 

-----------------------
Jean-Marie Gustave Le Clézio sinh năm 1940 ở Nice, bắt đầu nổi tiếng từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên, Le Procès-verbal, Giải thưởng Théophraste Renaudot 1963. Từ ấy đến nay – hơn 40 năm trôi qua một sự nghiệp văn chương đa dạng, phong phú và độc đáo, có thể chỉ căn cứ là nhà văn đầu tiên nhận giải thưởng Paul Morand cho toàn bộ tác phẩm (1980)? – ông đã xuất bản trên dưới 40 cuốn sách: tiểu thuyết, tiểu luận, truyện ngắn, hai bản dịch thần thoại thổ dân châu Mỹ, và vô số những bài viết, bài tựa và nhiều đóng góp cho những tác phẩm tập thể. Từ thời trẻ, mới nổi tiếng, Le Clézio đã được biết đến như một nhà văn “ẩn dật”: ông sống ở Nice (tôi còn nhớ một tấm ảnh chụp ông bước đi trên một bến cảng, người cao lêu nghêu, nổi bật trên một cái nền sông nước và thuyền bè đăng trên báo Le Figaro Littéraire hơn một phần tư thế kỷ trước) và rất ít khi đến Paris, rất ít khi thích ngồi xuống cho ai phỏng vấn, bởi vì “ẩn dật” chỉ là một thái độ: thật sự, ông là một người bước đi. “... đối với tôi là dân ở đảo, một người ở bên bờ biển nhìn những chuyến tàu chở hàng đi qua, gót chân mài trên những bến cảng, như một người bước đi dọc theo một đại lộ nhưng là người không thể thuộc một khu phố hay một thành phố nào, mà là thuộc về mọi khu phố và mọi thành phố, ngôn ngữ Pháp là quê hương duy nhất của tôi, là nơi duy nhất tôi sống .” (trả lời Catherine Argand, 1994). Chúng ta sẽ không ngạc nhiên: Le procès-verbal thai nghén ở Anh, L’extase matérielle lên men ở Bangkok, và nhiều tác phẩm khác nẩy sinh từ những chuyến đi, sống và viết: Mexique, Panama, quần đảo Maurice và Rodrigues... Từ một nhà văn trẻ, mà những cuốn sách viết rất đẹp làm người đọc liên tưởng đến những nhà văn trong nhóm Tiểu thuyết Mới, nhạc pop, nhiều nét Lautréamont, Artaud, nhất là Michaux, cái nhìn theo tinh thần Blake – cả Keats, Auden, Salinger mà ông đọc đi đọc lại nhiều lần - đến nay Le Clézio đã vạch con đường riêng của mình, và năm 1994 được chọn là nhà văn viết tiếng Pháp lớn nhất còn sống.
Trong truyện ngắn "Le mone est vivant", Le Clézio có mô tả một phương pháp viết đơn giản, quá mức đơn giản: Đây là những gì cần làm: phải đi về đồng quê, như một họa sĩ Chủ nhật, với một tờ giấy lớn và một cây bút bi. Chọn một nơi vắng vẻ, trong một thung lũng nằm trong hốc núi, ngồi trên một tảng đá và nhìn lâu chung quanh mình. Khi đã nhìn no, phải lấy tờ giấy ra, và vẽ ra bằng chữ những gì ta thấy... Nhưng ta hãy coi chừng: nhà văn của chúng ta không đơn giản như thế: tác phẩm Le Clézio đi từ những vấn đề liên hệ đến nhà văn và ngôn ngữ (ngôn ngữ chỗ quê hương), lý do phải viết, ngôn ngữ-thực tại, ngôn ngữ-âm nhạc, ngôn ngữ-hội họa, thần thoại cổ, cái nhìn, sự cô đơn, nỗi đau, con người chuyển động trong một thế giới mà công việc đẹp nhất của người viết là... sao chép lại.
[Ngoài nhiều giải thưởng văn học giá trị, J-M G. Le Clézio còn nhận được một giải thưởng không văn học: mùa Hè 1999, theo thăm dò đặc biệt của Ipsos/L’Evénement, nhà văn được bầu là người thứ 11 trong số 12 “ngôi sao nam” được phụ nữ Pháp chọn là hấp dẫn nhất trên toàn thế giới – cùng với Robert Redford, Sean Connery, Antonio Banderas, Johnny Depp, Alain Delon, Leonardo di Caprio, Hugh Grant, vân vân.]
Tác phẩm Jean-Marie G. Le Clézio có thể gọi là đồ sộ. Có lẽ đây là một trong những tác giả ít ai muốn ghi danh sách tác phẩm trong một vài dòng giới thiệu sơ sài, sợ mang tiếng khập khiễng chăng...
(Hoàng Ngọc Biên giới thiệu)

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021