thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Chim sơn ca

 

Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn

 

GABRIELA MISTRAL

(1889-1957)

 

Gabriela Mistral (tên thật là Lucila Godoy Alcayaga, sinh ngày 7 tháng 4 năm 1889 tại Vicuña, Chile) là cây bút Mỹ La-tinh đầu tiên đoạt giải Nobel Văn Chương (1945). Bà bắt đầu sáng tác từ hồi còn rất trẻ và đăng thơ rải rác trên các nhật báo, sử dụng nhiều bút danh khác nhau. Tập thơ Sonetos de la muerte (1914) của bà (với bút danh Gabriela Mistral) được trao tặng giải thưởng Juegos Florales de Santiago, đánh dấu bước thành công đầu tiên của bà trong văn nghiệp. Kể từ đó, Gabriela Mistral vừa sáng tác văn chương, vừa hoạt động như một nhà giáo dục và một nhà ngoại giao quốc tế.
 
Bà xuất bản không nhiều, nhưng mỗi cuốn sách của bà đều tạo nên những ảnh hưởng quan trọng. Ngoài tập thơ đầu tay, Gabriela Mistral chỉ xuất bản thêm 8 cuốn sách: Desolación (1922), Ternura (1924, tái bản năm 1945 có bổ sung), Lecturas para mujeres (1924), Tala (1938), Poemas de la madre (1950), Lagar (1954), Epistolario (1957) và Recados: Contando a Chile (1957). Sau khi đoạt giải Nobel Văn Chương, bà được Hoàng Đế Gustav của Thuỵ-điển trao tặng giải thưởng văn hoá vào cuối năm 1945. Năm 1947, bà nhận bằng Tiến Sĩ Danh Dự của học viện Mills College ở Oakland, California. Năm 1951, bà được trao tặng Giải Thưởng Văn Chương Quốc Gia Chile.
 
Gabriela Mistral mất ngày 10 tháng 1 năm 1957 tại New York.

 

__________

 

CHIM SƠN CA

 

Anh nói rằng anh yêu chim sơn ca hơn bất cứ loài chim nào khác vì đường bay của nó thẳng đến mặt trời. Em muốn đường bay của chúng mình cũng giống như thế.

Những con chim đại hải âu bay trên biển, say ngất vì chất muối và i-ốt. Chúng giống như những ngọn sóng tự do tung vào không trung, nhưng chúng không rời khỏi những ngọn sóng khác.

Những đàn cò thường có những hành trình rất dài; chúng trải những chiếc bóng của chúng trên khắp mặt địa cầu. Nhưng, giống như loài đại hải âu, chúng bay song song với đường chân trời, và nghỉ ngơi trên những sườn đồi.

Riêng con chim sơn ca phóng ra khỏi những lối mòn như một chiếc phi tiêu sinh động và bay vụt lên, mất hút vào những tầng trời. Thế rồi con chim sơn ca cảm thấy như chính mặt đất cũng nhô lên. Những cánh rừng thiêng bên dưới không đáp lời con chim sơn ca. Những ngọn núi bị đóng đinh trên các bình nguyên không đồng vọng.

Thế nhưng, một mũi tên có cánh cứ nhanh nhẹn phóng vút lên, và nó hót líu lo giữa vầng dương và mặt đất. Ta không biết phải chăng con chim đã rơi xuống từ vầng dương hay bay lên từ mặt đất. Nó hiện hữu giữa trời và đất, như một ngọn lửa. Khi đã ngợi ca các tầng trời bằng muôn câu hát tràn trề, con chim sơn ca mệt nhoài đáp xuống đồng lúa mì.

Anh ơi, anh đã muốn chúng mình có được đường bay thẳng đứng ấy, không một chút lượn lờ chao đảo, để vươn đến tận nơi chúng mình có thể nghỉ ngơi trong ánh sáng.

Anh đã muốn bầu trời rạng đông đầy những mũi tên, tràn ngập những con chim sơn ca phơi phới tung bay. Anh, trong từng bài hát bình minh, anh đã tưởng tượng đến những bầy chim sơn ca vàng óng bay giăng giăng như tấm lưới trôi giữa đất trời.

Anh ơi, vai chúng mình nặng trĩu. Chúng mình tha thiết với lối mòn ấm áp: những thói quen cũ. Chúng mình vươn lên trong vinh dự, chỉ như cây sậy cố ngoi lên. Cọng lá kiêu hãnh nhất cũng không vượt quá những nhánh thông cao lớn.

Chỉ khi chúng mình chết đi chúng mình mới đạt được đường bay thẳng đứng ấy. Chẳng bao giờ còn bị cầm giữ bởi những lối mòn trần thế nữa, thân xác chúng mình sẽ hoà nhập vào linh hồn chúng mình nơi thiên đỉnh.

 
----------
Dịch từ nguyên tác tiếng Tây-ban-nha, “La alondra”, trong Antología de poesía y prosa de Gabriela Mistral [selección y prólogo de Jaime Quezada] (Santiago de Chile: Fondo de Cultura Económica, 1997).

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021