thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Cái tôi không bao giờ cô đơn

 

Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn

 

MARCEL MARIËN

(1920-1993)

 

Marcel Mariën, người Bỉ, sinh ở Antwerp, là một trong những nghệ sĩ tạo hình nổi danh của phái siêu thực ở Bỉ. Ông còn là nhà thơ, nhà viết tiểu luận, nhà nhiếp ảnh, và nhà làm phim. Ngoài vô số tác phẩm mỹ thuật, ông đã viết và xuất bản hơn một chục cuốn thơ và văn xuôi. Năm 1854 ông thành lập nhà xuất bản Les Lèvres Nues, rồi cùng Christian Dotremont và Paul Colinet điều khiển tạp chí Le Ciel Bleu. Từ năm 1963, ông sang Trung Quốc làm việc như một nhà dịch thuật, nhưng năm 1965 ông trở về Bỉ vì hoàn toàn thất vọng với chủ nghĩa Mao. Năm 1983, ông tung ra cuốn tự truyện Le Radeau de la Mémoire và gây xôn xao dư luận vì những tiết lộ cực kỳ táo bạo về đời tư của chính ông. Marcel Mariën, tất nhiên, là một con người rất khác thường trong cả nghệ thuật và đời sống.
 
Truyện ngắn dưới đây nằm trong tuyển tập The Belgian School of the Bizarre: An Anthology of Short Stories (1998), gồm những truyện ngắn khác thường của 16 tác giả của nước Bỉ, do Kim Connell chọn lựa, biên tập và dịch thuật.
 

_________

 

CÁI TÔI KHÔNG BAO GIỜ CÔ ĐƠN

 

Suna Siriak vừa lên mười lăm tuổi thì nó được thuê làm cậu bé phụ việc trên tàu SS Max Havelaar, một tàu vận tải hạng nhẹ chạy trong vùng quần đảo Sonde. Con tàu vừa rời Makassar và đang trên hải trình đến đảo Timor thì một bi kịch tàn nhẫn làm đảo lộn số phận của mọi người trong toán thuỷ thủ.

Siriak thay thế cho Morok để canh chừng bánh lái trong lúc ông ấy xuống ăn tối với ba thuỷ thủ khác và vị thuyền trưởng. Thông thường, ông ấy chưa bao giờ đi lâu hơn mười lăm phút. Nhưng đã hơn một tiếng đồng hồ mà ông ấy vẫn chưa trở lại, nên Siriak đi xuống phòng ăn để xem chuyện gì xảy ra. Nó thấy năm người đồng hành của nó đang quằn quại trong đau đớn, bị nhiễm độc vì ăn một thứ thịt ướp nào đó. Tất cả họ đều chết trước khi trời tối.

Đứa con trai mới lớn quá thiếu kinh nghiệm để lái tàu. Suốt đêm nó vật vã chống lại cơn buồn ngủ, nhưng sáng hôm sau nó đã đi lạc ra khỏi biển Timor, và con tàu chạy về hướng Ấn Độ Dương. Ba ngày trôi qua. Nó phải vất bỏ những xác chết đang thối rữa dưới sức nóng mặt trời. Thế rồi, giữa đêm thứ năm, trong lúc nó đang ngủ, con tàu nhỏ tông vào một bãi đá ngầm. Nước phun xối xả vào khoang, và chẳng mấy chốc con tàu chìm xuống. Siriak nhảy xuống biển và bám vào một cái rương mà nó đã vội vã ném đầy những dụng cụ linh tinh vào đó.

Trời hừng đông, nó đặt chân lên một hòn đảo. Chẳng mấy chốc nó nhận ra đó là một hoang đảo. Đi từ đầu bên này qua đầu bên kia đảo chỉ mất hai chục phút. Không có bất cứ một dấu hiệu nào chứng tỏ đã có người ở đây, nên nó không hy vọng gì hòn đảo này được các thuỷ thủ hàng hải biết đến. Tuy nhiên, nó lại phát hiện một dòng suối, và những cây dừa, cây xoài, cây chuối mọc sum suê có thể giúp nó sống sót.

Siriak chưa từng đọc Robinson Crusoe, nhưng thật ra cũng chẳng có nhiều cách xoay xở gì cho lắm sau một cuộc đắm tàu. Nó kiểm tra các dụng cụ trong rương và nhặt nhạnh những mảnh đồ đạc trôi dạt mà sóng biển đã ném lên bãi cát. Cuộc thu hoạch chẳng được gì mấy, ngoại trừ một cái thùng gỗ lớn đựng toàn những tấm gương soi. Siriak ngồi xuống bờ biển và và bắt đầu sắp đặt cuộc sống của mình.

Phải mất vài ngày trôi qua thì nó mới thật sự hiểu sâu sắc nỗi cô đơn mà nó đã bị số phận xô đẩy vào. Ngoại trừ những con chim và côn trùng, chẳng có bất cứ loài thú vật nào khác trên đảo. Siriak bắt được vài con két và dùng dây cột chân chúng vào một cành cây. Nó để cho chúng giãy giụa mãi đến tối. Khi mặt trời lặn, nó đến với bọn két, nhìn đăm đăm vào chúng, và đọc cái tên của nó, "Siriak", rất nhiều lần với một giọng rõ ràng. Bọn két chăm chú nhìn nó và lắng nghe, không hề nhúc nhích. Siriak cho chúng ăn một ít hạt cây, và hôm sau nó lặp lại bài học ấy. Sau khi nó đã đọc tên nó năm mươi lần, nó cho chúng ăn và thả chúng bay đi. Vài ngày trôi qua không có điều gì xảy ra, thế rồi một buổi sáng đẹp trời Siriak thức giấc, ngạc nhiên nghe tên nó được kêu lên. Đậu trên một cành cây cách nó vài thước, một con két kêu tên thằng bé vài lần. Như ta có thể phỏng đoán, đó chính là kết quả mà Siriak đã hy vọng, nếu không nói là đã biết trước. Con này dạy con kia, chẳng bao lâu, tất cả những con két trên đảo đều lặp đi lặp lại tên của Siriak từ sáng sớm đến chiều hôm.

Nỗi cô đơn đã giam cầm nó vào cái tôi của nó — một cái tôi không ngừng hiện diện — tuy thế, nó vẫn cố gắng nhớ rằng nó cũng hiện hữu bên ngoài cái tôi ấy, ngay cả cho dù sự hiện hữu này chỉ như sự hiện hữu của một vật thể đơn thuần trên hòn đảo.

Và cứ thế, nhiều tuần và nhiều tháng trôi qua. Không có điều gì khuấy động cuộc sống cô đơn của nó. Đôi khi nó nghĩ nó thấy từ xa xa có một chiếc tàu thuỷ hay một chiếc phi cơ, nhưng những thứ ấy chẳng gì khác hơn là ảo ảnh. Thế rồi một ngày kia nó lưu ý đến cái thùng gỗ vô dụng trước đây đã trôi vào đảo, cái thùng đựng toàn gương soi ấy. Phải có đến cả nghìn tấm gương soi, tất cả đều được cắt theo hình dạng giống như nhau. Căn cứ theo những chữ còn đọc được trên nắp thùng, những tấm gương soi này được chuyên chở đến một tiệm làm khung gương tên là Melville. Siriak lấy ra nửa tá và đặt chúng dựa vào những thân cây dừa. Nó thấy chính nó phản ảnh sáu lần. Một phần vì tuyệt vọng, một phần vì sự nhàm chán, nó đặt những tấm gương rải rác khắp cả hòn đảo. Để chúng dựa vào bất cứ thứ gì, vào những thân cây, vào những tảng đá, vào giữa những cành lá, nó tự nhủ những tấm gương ấy may ra có cơ hội được trông thấy từ xa và khiến một chiếc thuyền nào đó lưu ý đến. Tất nhiên, điều này chẳng hề xảy ra.

Thời gian trôi qua và mỗi ngày Siriak rảo bước quanh cái vương quốc tí hon của nó và nó thấy cái phản ảnh hiện-hữu-khắp-nơi của nó thoáng qua tầm mắt nó ở mỗi khúc cong của lối đi. Trong lúc đó, những con két tuyên xưng cái tên của nó trong làn gió đẫm hương thơm và mùi mặt trời nồng nực.

Sau đó vài năm, nó chết, có lẽ vì sự nhàm chán. Những tấm gương đã từng nhân lên, làm bội trùng hòn đảo và cư dân duy nhất ở đó, giờ đây chẳng còn gì mấy để phản ảnh. Nhưng ngay cả khi thân xác của thằng bé đã hoàn toàn tan rã, và những lóng xương của nó đã chìm lẫn vào cát trên bờ biển, rất lâu sau đó, trên khắp hòn đảo, hết thế hệ này đến thế hệ khác, những con két vẫn tiếp tục gào tên thằng bé, và cái tên ấy còn vang vọng mãi mãi.

 

 

------------
Dịch từ bản Anh ngữ, "The I Is Never Alone", trong The Belgian School of the Bizarre: An Anthology of Short Stories, edited and translated by Kim Connell (Madison, New Jersey: Fairleigh Dickinson University Press, 1998).
 

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021