thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Gửi A.P. Sidorov, chuyên gia cai nghiện | Nhạc sĩ và Thiên thần | Hãy cho tôi biết ngay sau khi tuyết rơi | [Chúng ta từng là những đội viên…] | Trên phố Arbat
 
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
 
BORIS RYZHY
(1974-2001)
 
Boris Ryzhy, hay Ryzhii, sinh ngày 8 tháng 9, 1974, tại thành phố Tcheliabinsk, trong một gia đình bố làm nghề kỹ sư mỏ. Năm 1980 gia đình chuyển đến sinh sống ở Sverdlovsk – tên thời Liên Xô – tức thành phố Yekaterinburg, trung tâm công nghiệp của miền Ural, nổi tiếng là vùng đất khắc nghiệt của những hầm mỏ, nhà máy, những cựu tù nhân... Boris Ryzhy làm thơ từ lúc mười bốn tuổi, đúng cái tuổi chàng thanh niên nổi tiếng trong thành phố mình sinh sống là một vô địch quyền Anh. Năm 1991 ông vào Học viện Hầm mỏ Sverdlovsk và lấy vợ rất sớm, lúc mười bảy tuổi, rồi có con khi chưa tới hai mươi. Thời đi học ông thường xuyên tham gia các sinh hoạt thơ, các buổi họp mặt hội thảo, liên hoan thơ, kể cả các hoạt động báo chí & xuất bản,[1] với sự giúp đỡ tuyệt vời của một nhà thơ mất sớm là Yuri Lobantsev – và chính qua cuộc sống lãng tử ấy (mặc dù có gia đình và vẫn đeo đuổi những giấc mơ khoa học của mình)[2] ông trở thành gương mặt sáng chói nhất trong nhóm thơ ở Yekaterinburg. Ông từng làm biên tập cho báo Ural và phụ trách chuyên mục thơ trên các trang “Câu lạc bộ Sách” cho báo thành phố Yekateringburg. Dân cư ngụ cùng thành phố với ông cũng như lối sống của đồng bào quanh ông ghi đậm dấu ấn trong thơ ông – những phạm nhân cơ cực từ tuổi thơ của cậu bé Boris cứ thế đi vào những câu thơ đầu đời đầy thương xót và đồng cảm...
 
              Tôi ra đời – tôi vẫn còn thấy đây là chuyện khó tin nổi –
              trong một mê lộ những xưởng máy,
              trên mảnh đất bồ câu núi, suốt cả ngàn năm, cư trú
              đồng đều đám công an và trộm cướp.
              Bởi những lý do đó, tôi không ưa sự thu nhỏ,
              và khi có người gõ cửa, mỉm cười và hỏi xin chút dấm,
              tôi đem ngay cho họ cái họ cần.
 
               (Trích Lớp băng phủ trên đá hoa, 1997)
 
Năm cuối cuộc đời có thể được coi là khởi điểm của sự nghiệp tốt đẹp nhất của Ryzhy không chỉ trong lĩnh vực khoa học mà cả trong thơ ca, khi chính ông đang bắt đầu được chào đón như một trong những nhà thơ hàng đầu của thế hệ mình – nếu ông không tự chấm dứt cuộc đời một cách bi thảm, treo cổ, vào ngày 7 tháng Năm, 2001, sau những ngày tháng tinh thần suy nhược, nát rượu, tuyệt vọng, tình trạng gần như khá phổ biến nơi các chân dung tuổi trẻ Nga trong thơ ca ông: những thanh niên vừa bước vào thời kỳ đổi mới mà vẫn chưa cảm thấy đã thực sự lột bỏ được hẳn chiếc “mặt nạ” nặng nề của những năm tháng xô viết – và trong số đó không phải là không có những người bị cuốn theo tiếng gọi của một vực thẳm lấp lánh sao, khát khao một cuộc sống thực với lòng mình, như chính ông?...
 
Ryzhy từng nhận một số giải thưởng, như Giải Anti-Booker Prize năm 1999, và không ít lời mời tham dự các Liên hoan thơ, như Liên hoan Thơ Rotterdam vinh danh Joseph Brodsky chẳng hạn. Sau cái chết rất trẻ, tên tuổi ông bắt đầu được gắn liền với danh sách những nhà thơ hàng đầu ở Nga, thơ ca ông được giới thiệu và tán dương rộng rãi khắp nước: tiếp theo tập Thơ tuyển 1999-2001 do Quỹ Pushkin xuất bản thời ông còn sống, là nhiều tuyển tập và thơ tuyển đóng góp phong phú vào kho tàng văn học Nga những năm gần đây, đặc biệt là tập thơ xuất bản sau khi ông qua đời Opravdaniye zhizni [Biện giải cuộc sống] và nhận giải thưởng đươc kể là khá quan trọng ở Nga: Giải “Северная Пальмира” [Cây cọ Phương Bắc].
 
Ngoài bộ phim tư liệu “Boris Ryzhy” do nữ đạo diễn Hà-lan Aliona van der Horst thực hiện năm 2009 từng đoạt nhiều giải thưởng, trong đó có Giải “Best Feature Documentary” tại Liên hoan Phim Quốc tế Edinburg năm 2009 khiến những người hâm mộ thơ trên thế giới biết và bắt đầu nhìn nhận tài năng của ông, Boris Ryzhy còn nổi tiếng nhờ những dòng thơ phóng khoáng với cách diễn đạt đời thường, giọng điệu có khi gợi nhớ ít nhiều dòng thơ Nga vào thời Серебряного века [Thời đại Bạc] được chuyển qua nhiều ngôn ngữ như Anh, Ý, Đức, Pháp, Hà Lan, Serbe...[3]
 
Tác phẩm chính: Lyubov [Tình yêu, 2000], I Vsyo Takoye [Và mọi thứ cùng loại..., 2000], Na Kholodnom Vetru [Trong gió lạnh, 2001], Stikhi 1993-2001 [Thơ, 2003], Opravdaniye Zhizni [Lý lẽ cho cuộc sống, 2004], Tipa Pesnya [Như một bài ca, 2006]...
 
_________________________

[1]Ông từng có tên trong ban biên tập tạp chí Ural, và là người giữ mục “Thơ hôm nay với Boris Ryzhy” của tờ báo này – không kể nhiều đóng góp liên tục cho báo và các tạp chí khác, như Zvezda, Znamya, các niên giám như Urbi, Arion, kể cả báo và tạp chí xuất bản ở Moscow.

[2]Năm 1997 ông tốt nghiệp Viện Hầm mỏ và là nghiên cứu sinh tại Viện Khoa học Ural thuộc Học viện Địa Vật lý, với rất nhiều công trình nghiên cứu địa chất (cấu trúc vỏ trái đất và hoạt động địa chấn trong vùng Ural và toàn nước Nga) được xuất bản, và công trình cuối cùng của ông từng được dự kiến công bố trong Báo cáo của Viện hàn lâm Khoa học.

[3]Mặc dù nhạc trong thơ Boris Ryzhy là thứ không phải dễ dàng chuyển tải, tất nhiên, một phần, kể cả trong các bản Việt ngữ được giới thiệu trên trang này.

 
 
 

Gửi A.P. Sidorov, chuyên gia cai nghiện

 
Ánh sáng xanh sẫm trên hành lang bệnh viện,
Trăng sáng bên kia những cửa kính bệnh viện.
Hãy suy nghĩ thật sâu về những sự vật bình thường,
suy nghĩ thật sâu về những chuyện dễ dàng nhất.
Đã ba ngày nay gã gypsy vẫn giữ sạch sẽ,
giờ chẳng còn gì có thể làm cho gã gypsy.
Nước han gỉ từ vòi rỉ ra,
bạn không sao ngủ được, suốt đêm bạn đi lảng vảng
trên các hành lang bệnh viện trong ánh sáng xanh sẫm
loé ra qua các khung cửa sổ.
Ôi thời gian bạn sống trên cõi nhân gian ngắn biết bao,
chắc chắn không phải ai cũng như ai?
(Tôi đang đọc một cuốn sách bi thảm,
có kẻ đã để lại khi vội vàng rời nơi đây.
Và vâng, tôi đang lấy hai hàm răng giả khẽ
gõ nhịp theo khúc nhạc của Grieg.)
Đúng quá, không thể ít quan tâm hơn, cho dù có những lúc...
Tôi thì khác, nhưng đôi lúc, thỉnh thoảng
tôi nhắm mắt lại một lát,
rồi tôi lại mở mắt ra,
và lấy tay ôm quàng quanh chân
tôi nghĩ về cái chết có thật,
bâng quơ nhìn lên tường bệnh viện
với bức tranh vẽ những cây bulô.
 
 
 

Nhạc sĩ và Thiên thần

 
Trên quảng trường cũ bé xíu một nhạc sĩ chơi đàn –
mặt chàng xanh xao, chàng mang cà-vạt đen.
 
Tôi ngồi trên một chiếc ghế dài nghe chàng biểu diễn.
Chẳng có ai khác trên quảng trường cũ,
 
ngoài những con bồ câu, họp đàn dưới chân tôi,
và một thiên thần mắt xanh bay lượn phía trên.
 
... Và, ô, khúc nhạc càng dai dẳng và kinh hãi
thiên thần có cánh càng dịu dàng cười tươi...
 
 
 

Hãy cho tôi biết ngay sau khi tuyết rơi

 
Hãy cho tôi biết ngay sau khi tuyết rơi
Chúng tôi còn sống hay chúng tôi đã bị chôn vùi?
Không, xin hãy im lặng một lúc đã, tôi không chỉ cần lời nói
trên mặt đất, trên thiên đường, hay trong huyệt mộ.
Thượng đế không ban cho tôi một đại dương tươi hồng,
cũng không cho tôi sức mạnh để trả đũa kẻ thù,
mà chỉ cho mỗi khả năng khóc nỗi đau của người khác,
khi yêu, thì biết mỉm cười cho hạnh phúc của người khác.
... Những chú lính ướt mem chơi trò bốc tuyết ném
họ chỉ một mình, một mình trên toàn cõi thế gian...
Tuyết tinh khiết biết bao, như thiên thần – được chắp cánh,
chẳng có tội gì, như trẻ em.
 
 
 

* * *

 
Chúng ta từng là những đội viên thiếu niên tiền phong cuối cùng,
chúng ta không từng là đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản.
Chúng ta lên mười bốn tuổi –
và đã rũ bỏ hết mọi ràng buộc.
Và không trở thành là gì cả: sao trời và bông tuyết,
tàn lửa bay ra từ những điếu thuốc,
những chiếc hôn nhẹ lên sương giá,
nhưng không còn là những bài ca vang lên
từ những cái loa, đặc biệt là vào ngày Một tháng Năm.
 
 
 

Trên phố Arbat

 
Trên phố Arbat, trên phố Arbat, trên phố Arbat,
hãy mau móc ra mười đồng rúp vì tình thương đấng Christ.
A, Moscou, ai thèm lấy mấy con búp bê Nga của mi,
thằng bé con chơi cho ta nghe một bản đàn accordéon.
Đàn đi, thằng bé, đàn lên đi thằng oắt con,
                        hãy đàn cho ta một bài ca của kẻ lang thang,
cho ta, là nhà thơ, kẻ đua đòi, ưa chim chuột, thằng ngu.
Ta sẽ phá ra cười, ta sẽ cho mi mười đồng rúp
                        và sẽ sắp xếp tờ bạc một trăm,
mi sẽ không muốn tin là ta khóc.
Vâng, ta khóc, bởi vì cuộc đời quá đẹp,
bởi vì tất cả những gì diễn ra đều chẳng dùng làm gì.
Mi mười tuổi, có một cây đàn accordéon đẹp,
này thằng bé dễ thương, hãy chờ một chút.
Sẽ đến lúc, trong con hẻm tối mù nhất của những con hẻm
là nơi các tổng thiên thần và dân anh chị thi nhau tống tiền,
để đánh đổi một tấm hình xanh đẹp mắt, một tấm hình đỏ,
mi sẽ cắm một con dao lên lưng ta.
 
 
 
 
 
------------------
“Gửi A.P. Sidorov, chuyên gia cai nghiện” và “Nhạc sĩ và Thiên thần” dịch từ bản tiếng Anh “To A.P. Sidorov, drugs rehabilitation specialist” và “The Musician and the Angel” của Sacha Dugdale trong tạp chí Modern Poetry in Translation Series 3, No.4 – 2004. “Hãy cho tôi biết ngay sau khi tuyết rơi “ và [“Chúng ta từng là những đội viên...”] dịch từ bản tiếng Anh của Tom Dolack trong tạp chí Jacket No.36, 2008. “Trên phố Arbat” dịch từ bản tiếng Pháp “Sur l’Arbat” của Christine Zeytounian-Beloüs trong La nouvelle poésie russe - Anthologie, do Evgueni Bounimovitch giới thiệu, Ecrits des Forges [Canada] và Autres Temps [Marseilles] xuất bản, 2005.
 
 
 
-------------
Đã đăng:
 
Bốn bài thơ  (thơ) 
... Và một tượng người mẫu, là thứ bất tử, trông gớm ghiếc, / nó đang quan sát chúng ta bằng đôi mắt đẹp. / – Nhưng nó biết gì? Nó biết rằng thế giới này là tàn bạo? / Là khủng khiếp? ... | ... Hãy ném thêm một cục nước đá / vào bài thơ lạnh lẽo này. / ... Và những chuyến xe lửa trật đường ray, / ... Và những chuyến bay lên tận các tinh tú / bốc cháy giữa sao trời... | ... Xin mi đừng buồn rầu, đừng sầu não. / Hãy tha thứ cho ta nếu như ta lầm lỗi. / Hãy để cho gương mặt của mi vĩnh viễn / được mùa xuân soi sáng... | ... qua lối mòn của cuộc chia ly bất tận, / qua con đường của nỗi buồn bất tận / về ngôi nhà bạn từng ra đời, nhạt nhòa trong hoàng hôn, / nỗi cô đơn, cơn ngủ mơ, tiếng lá rơi, / trở về như một chiến binh tử trận... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021