thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Mất máu

 

Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn

 

ZDRAVKA EVTIMOVA

(1959~)

 

Zdravka Evtimova là một nhà văn kiêm dịch giả người Bulgaria, thông thạo các ngoại ngữ Anh, Đức, Pháp và Nga. Bà đã xuất bản 5 cuốn tiểu thuyết và 9 tập truyện ngắn. Trong số đó, tập truyện ngắn Somebody Else [Một người nào khác] do MAG Press xuất bản tại San Diego, California, đã đoạt giải “Best Short Story Collection by an Established Author Award of MAG Press” năm 2004, và cuốn tiểu thuyết Thursday [Thứ Năm] đã đoạt giải thưởng Hội Nhà Văn Bulgaria năm 2003. Một số truyện ngắn của bà cũng đoạt được những giải thưởng giá trị khác và được phát thanh trên BBC. Bà thường xuyên gửi đăng truyện ngắn trên rất nhiều tạp chí văn học ở Hoa Kỳ.
 
Dưới đây là bản dịch Việt ngữ của truyện “Pale” [“Mất máu”] (còn có nhan đề là “Blood of a Mole” [“Máu chuột chũi”]). Đây là một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất của Zdravka Evtimova, đã được chọn in vào nhiều tuyển tập truyện ngắn ở Hoa Kỳ và Canada, và là truyện chính trong tập Pale and Other Postmodern Bulgarian Stories [“Mất Máu” và Những Truyện Hậu Hiện Đại Bulgaria Khác] do nhà Vox Humana Books xuất bản tại Toronto năm 2010.

 

_________

 

MẤT MÁU

 

Tiệm của tôi có ít khách đến viếng. Họ đến để nhìn ngắm những con vật trong chuồng, hiếm khi mua chúng. Phòng trưng bày thú thì chật hẹp và không còn chỗ nào cho tôi ở sau quầy, nên tôi thường ngồi trên cái ghế cũ ọp ẹp đằng sau cánh cửa. Suốt hàng giờ, tôi nhìn đăm đăm vào những con ếch, thằn lằn, rắn và các thứ côn trùng. Vài giáo viên đến tiệm tôi, mua những con ếch cho những bài sinh vật học; dăm người câu cá ghé vào mua mồi; chỉ thế thôi. Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ phải dẹp tiệm và tôi sẽ cảm thấy tiếc nuối, vì cái mùi ngái ngủ và u ám của chất formalin đã luôn luôn cho tôi sự bình yên và một cảm giác thân mật kỳ lạ giống như đây là nhà của mình. Tôi đã làm việc ở đây được năm năm.

Một hôm, một người đàn bà lạ mặt, nhỏ thó, bước vào tiệm. Khuôn mặt tối tăm, xám xịt của bà trông thật đáng sợ. Bà đến gần tôi, hai cánh tay bà run rẩy, nhợt nhạt một cách khác thường, giống như xác chết của hai con cá trắng trong bóng tối. Người đàn bà ấy không nhìn tôi, cũng không nói gì cả. Hai khuỷu tay của bà lẩy bẩy tựa trên cái quầy gỗ. Dường như bà không đến để mua những con thằn lằn hay những con ốc; có lẽ bà chỉ cảm thấy choáng váng và ghé vào nơi gần nhất có mở cửa để nhờ giúp đỡ. Tôi sợ bà sẽ ngã xuống, nên tôi nắm lấy bàn tay của bà. Bà vẫn giữ im lặng, chùi môi bằng chiếc khăn tay. Tôi không biết nói gì; không gian trong tiệm rất im lặng và tối tăm.

“Có bán chuột chũi ở đây không?” thình lình bà hỏi. Rồi tôi trông thấy đôi mắt của bà. Đôi mắt giống như những mảnh mạng nhện cũ rách với một con nhện nhỏ ở chính giữa hai đồng tử của bà.

“Chuột chũi?” tôi ấp úng. Tôi phải nói cho bà biết tôi chưa bao giờ bán chuột chũi trong tiệm này và tôi chưa bao giờ thấy một con chuột chũi trong đời tôi. Nhưng bà cần nghe một điều khác — một sự khẳng định. Tôi biết được điều ấy trong ánh mắt của bà, trong cử động rụt rè của những ngón tay bà đang mon men chạm vào tôi. Tôi cảm thấy thật khó mà nhìn thẳng vào mặt bà.

“Tôi không có chuột chũi,” tôi nói. Bà xoay người lại để bước đi, im lặng, đau đớn, đầu gục xuống giữa hai vai. Bà bước những bước chân ngắn, tần ngần.

“Này, khoan đã,” tôi nói. “Có lẽ tôi có vài con chuột chũi.” Tôi không biết tại sao tôi lại hành động như thế trong khoảnh khắc ấy.

Thân thể bà run lẩy bẩy, một nỗi đau đớn dâng lên trong mắt bà. Tôi cảm thấy xấu hổ vì đã không thể giúp đỡ bà.

“Máu của con chuột chũi có thể chữa lành cho người bệnh,” bà nói thầm thì. “Chỉ cần uống ba giọt mà thôi.”

Tôi sợ hãi. Tôi có thể cảm thấy một cái gì ma quái đang lẩn quất trong bóng tối.

“Ít nhất nó cũng làm dịu cơn đau,” bà tiếp tục nói mơ màng, giọng bà run run như sắp khóc.

“Bà đang đau?” tôi hỏi. Những chữ tôi nói bất ngờ vụt ra trong bầu không khí ẩm đặc, khiến bà giật mình. “Tôi xin lỗi,” tôi nói.

“Con trai tôi đang đau.”

Đôi mí mắt trong mờ của bà che khuất tia mắt long lanh yếu ớt và tuyệt vọng. Đôi bàn tay của bà nằm bất động trên quầy, cứng đờ như củi. Đôi vai nhỏ của bà trông càng gầy guộc hơn trong tấm áo choàng xám sờn rách.

“Uống một ly nước sẽ thấy đỡ hơn,” tôi nói.

Bà vẫn bất động và khi những ngón tay của bà cầm lấy ly nước, đôi mí mắt của bà vẫn còn khép. Bà xoay người để đi, vóc dáng nhỏ bé và mảnh khảnh, lưng còng, những bước chân lặng lẽ lảo đảo trong bóng tối. Tôi chạy theo bà với một sự cả quyết.

“Tôi sẽ cho bà máu của một con chuột chũi!” tôi hét lên.

Người đàn bà đứng lại, hai bàn tay bưng mặt. Thật là một hình ảnh không thể chịu đựng nổi. Tôi cảm thấy trống rỗng. Tia mắt của những con thằn lằn lấp lánh như những mảnh kính vỡ. Tôi không có một chút máu chuột chũi nào cả. Tôi không có bất cứ một con chuột chũi nào cả. Tôi tưởng tượng hình ảnh người đàn bà đang thổn thức trong phòng nhốt thú. Có lẽ bà vẫn còn bưng mặt trong hai bàn tay. Tôi khép cửa lại để bà khỏi thấy tôi, rồi tôi lấy dao cắt cổ tay trái của mình. Vết thương tứa máu và từ từ chảy vào một cái chai nhỏ. Sau khi mười giọt máu đã phủ đáy chai, tôi chạy trở lại phòng nhốt thú nơi bà đang đợi tôi.

“Đây rồi,” tôi nói. “Đây là máu của một con chuột chũi.”

Bà không nói một lời, chỉ nhìn trân trối vào cổ tay trái của tôi. Vết thương vẫn còn rỉ máu, nên tôi nhét cánh tay vào dưới chiếc yếm. Người đàn bà liếc nhìn tôi và nín lặng. Bà không cầm lấy cái chai, nhưng lại xoay người, vội vã bước về phía cửa. Tôi chạy theo ngăn bà lại, dúi cái chai vào hai bàn tay của bà.

“Đây là máu của một con chuột chũi!”

Bà sờ cái chai trong suốt. Chất máu bên trong sóng sánh như một ngọn lửa hấp hối. Rồi bà giở ví lấy ra một mớ tiền.

“Không. Không,” tôi nói.

Bà cúi gằm mặt, ném mớ tiền lên quầy, không nói một lời. Tôi muốn đi theo bà đến góc đường. Tôi mời bà uống thêm một ly nước, nhưng bà không nán lại. Cửa tiệm lại vắng tanh, tia mắt của những con thằn lằn lấp lánh như những mảnh kính ướt.

Những ngày lạnh lẽo và tẻ nhạt trôi qua. Lá mùa thu quay cuồng tuyệt vọng trong cơn gió, phả vào không gian một màu nâu úa. Những trận bão tuyết đầu mùa đông ném những bông tuyết vào khung kính cửa sổ và hát lên trong mạch máu tôi. Tôi không thể quên người đàn bà ấy. Tôi đã nói dối với bà. Không còn ai bước vào tiệm, và trong chiều tà lặng lẽ tôi cố gắng tưởng tượng người con trai của bà có dung mạo như thế nào. Mặt đất đóng băng, những đường phố hoang vắng khi mùa đông siết chặt nút dây băng giá của nó chung quanh những ngôi nhà, những tâm hồn và những tảng đá.

Một buổi sáng, cửa tiệm của tôi thình lình bật mở. Cũng chính người đàn bà nhỏ thó xám xịt ấy bước vào và trước khi tôi kịp chào bà, bà đã ập vào và ôm chầm lấy tôi. Đôi vai của bà nhẹ bổng và gầy guộc, nước mắt ràn rụa trên đôi gò má nhăn nheo. Cả thân thể bà run rẩy và tôi nghĩ bà sắp ngã xuống nên tôi chụp lấy đôi tay của bà. Rồi bà nắm lấy bàn tay trái của tôi, đưa nó lên mắt để nhìn. Vết sẹo đã tan biến, nhưng bà tìm thấy đúng chỗ bị cắt. Bà hôn lên cổ tay tôi, nước mắt bà rơi âm ấm trên da tôi. Đột nhiên khung cảnh trong tiệm trở nên êm ả.

“Nó bước đi!” Người đàn bà thổn thức, giấu một nụ cười đầy nước mắt trong lòng bàn tay. “Nó bước đi được rồi!”

Bà muốn cho tôi tiền; cái bao to màu đen của bà đựng đầy những thứ bà mang đến biếu tôi. Tôi có thể cảm thấy người đàn bà này đã vươn lên trong nghị lực, những ngón tay của bà đã trở nên mạnh mẽ, cứng rắn. Tôi tiễn bà đến góc đường nhưng bà chỉ dừng lại nơi đó, sau trụ đèn đường, nhìn tôi, vóc người bà nhỏ nhắn, môi mỉm cười trong gió lạnh.

Khung cảnh trong tiệm thật ấm cúng và cái mùi cũ kỹ, tinh tế của chết formalin làm tôi choáng váng với niềm vui. Những con thằn lằntrông quá xinh đẹp và tôi yêu chúng như thể chúng là con cái của tôi.

Vào buổi chiều cùng ngày, một người đàn ông lạ mặt bước vào tiệm. Vóc dáng gã cao lớn, nhưng trông xốc xếch và hoảng hốt.

“Cô có... máu của con chuột chũi không?” gã hỏi, tia mắt gã xuyên thấu qua tôi. Tôi cảm thấy sợ.

“Không, tôi không có. Tôi chưa bao giờ bán chuột chũi ở đây.”

“Ôi, cô có! Cô có mà! Ba giọt... chỉ ba giọt thôi... Vợ tôi sẽ chết. Cô có mà! Làm ơn!”

Gã nắm chặt cánh tay tôi.

“Làm ơn... chỉ ba giọt! Không thì vợ tôi sẽ chết...”

Máu tôi rỉ chầm chậm từ vết thương. Người đàn ông cầm một cái chai nhỏ và những giọt đỏ rơi lấp lánh vào trong đó như những tàn lửa. Rồi gã rời khỏi tiệm, để lại một cuộn tiền giấy trên quầy.

Sáng hôm sau, một đám người lạ mặt nói chuyện xì xào đứng đợi tôi trước cửa tiệm. Tay họ cầm những cái chai nhỏ.

“Máu chuột chũi! Máu chuột chũi!”

Họ la lên, thét lên, xô đẩy nhau. Mỗi người có một người bệnh ở nhà và mỗi người cầm một con dao.

 

 

-----------------
Dịch từ bản Anh ngữ, “Pale”, trong Zdravka Evtimova, Pale and Other Postmodern Bulgarian Stories (Toronto: Vox Humana Books, 2010) 1-4.
 

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021