thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Thời của những nhà thơ thức tỉnh | Cuộc đời trệu trạo | Mùa xuân | Mao | Thi đấu
 
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
GRZEGORZ WRÓBLEWSKI
(1962~)
 
Grzegorz Wróblewski sinh năm 1962 ở Gdansk và sống ở Warsaw, Ba Lan, từ 1966 đến 1985. Hơn hai mươi năm qua [từ 1986] ông sống ở Copenhagen, Đan Mạch, và ngoài bảy tập thơ và một tập tuyển những bài văn xuôi ngắn xuất bản ở Ba Lan, ông còn có hai tập thơ, một tập thơ văn xuôi, một cuốn tiểu thuyết thể nghiệm [dịch] xuất bản ở Đan Mạch, và một tập thơ tuyển ấn hành ở Bosnia-Herzegovina [Nxb. Mostar, 2002]. Wróblewski còn là tác giả nhiều vở kịch, và thơ văn của ông chuyển ngữ qua tiếng Anh thường xuyên xuất hiện trên London Magazine, Poetry London, Magma Poetry, Parameter Magazine, Chicago Review, 3rd bed, Eclectica, Mississipi Review và trong nhiều tuyển tập như Altered State: The New Polish Poetry (Arc Publications, Todmorden, UK 2003), Carnivorous Boy Carnivorous Bird (Zephyr Press, Brookline, USA 2004). Wróblewski từng tham gia trong ban biên tập tạp chí bruLion xuất bản bốn kỳ một năm, và ở Đan Mạch ông thường xuyên tham gia những buổi trình diễn thơ và nhạc. Văn thơ ông đưọc dịch ra nhiều thứ tiếng, và ông cũng từng nhận giải thưởng thơ dành cho nhà thơ nước ngoài xuất sắc nhất sống ở Đan Mạch.
 
Những tác phẩm chính: Ciamkowatosc zycia [“Cuộc đời trệu trạo”, 1992], Planety [“Hành tinh”, 1994], Dolina królów [“Thung lũng Vua”, 1996], Symbioza [Cộng sinh, 1997], Prawo serii [2000]. Tác phẩm thơ mới nhất của ông bằng tiếng Anh là Rooms and Gar, với những minh họa của Teodor Bok, cũng là một họa sĩ gốc Ba Lan, do Thư viện Quốc gia và Viện Văn hóa Đan Mạch ấn hành tháng Hai năm 2005.
 
 

Thời của những nhà thơ thức tỉnh

 
Tại sao chúng ta không còn yêu nhau nữa,
Chúng ta còn lại gì sau những năm tháng ấy?
Đấy là những bài ca buồn tôi nghe
Hôm nay.
 
Những nhà thơ, những nhà thơ thức dậy và gõ
Vào những cánh cửa sổ khi mùa đông đến.
Khi tôi buồn ngủ,
Họ bắt đầu khóc oà.
 
 
 

Cuộc đời trệu trạo

 
Tôi mở gói giấy.
Lấy miếng xăng uých ra và vội đút nó vào miệng mình.
Bánh mì và bơ và phó mát.
Không tệ, chẳng tệ chút nào, tôi nghĩ bụng.
Anh chàng bên cạnh tôi cũng nhai trệu trạo cái gì đó.
Tôi không nhìn thấy được nó là cái gì.
      –  Này anh! Anh ăn gì thế? tôi hỏi.
      –  Bơ và thịt hộp, hắn hét trả lời.
Tôi nằm lún xuống giường.
Bơ.
Bơ và thịt hộp.
Thịt hộp và bơ cứ quay trong đầu tôi.
Tôi chậm rãi trệu trạo miếng xăng uých, thắc mắc
về cái âm thanh lạ lùng của những từ “thịt hộp.”
Bơ tôi cứ để lại một ngày nào đó sau này.
Tôi bối rối như thế mãi một lúc lâu.
Không làm sao có thể tìm ra một cách nghĩ lô gích.
Anh chàng bên cạnh tôi kiểm tra răng trong một cái gương soi.
Hắn đưa mấy ngón tay mò mẫm, lẩm bẩm cái gì đó.
      – Này anh! Có gì lạ? tôi hỏi.
      – Tôi lấy răng chộp thức ăn, và nhai ngấu nghiến.
Hắn không bao giờ nói chuyện trở lại với tôi.
Chức năng của hắn đã ngưng.
Không tệ, chẳng tệ chút nào, tôi nghĩ bụng.
 
 
 

Mùa xuân

 
kế hoạch A
      treo cổ mình
kế hoạch B
      treo cổ mình
kế hoạch C
      khắc phục mùa đông
                  và qua mùa xuân
                              treo cổ mình
 
 
 

Mao

 
Mao Tse-Tung ra lệnh hủy diệt
đám chim sẻ. Ông có nhiều tình nhân
đầy ham muốn và một cái bụng phệ
giúp ông chẳng cần cố gắng mà vẫn nổi
trên cả những tay thợ lặn lúng túng
ốm o dưới nước!
 
 
 

Thi đấu

 
Hôm nay tôi thấy một cậu bé
cho một con bồ câu ăn
một cục xúc xích đỏ nhỏ xíu.
Chim và cậu bé bên nhau.
Cảnh tượng thật tuyệt đẹp!
Cậu bé ăn thịt
Chim ăn thịt.*
 
-------------
* Hai câu sau này đã được lấy làm tên sách cho tuyển tập thơ song ngữ Ba Lan / Anh, Carnivorous Boy Carnivorous Bird – Poetry from Poland, do Marcin Baran tuyển chọn, Anna Skucinska và Elzbieta Wójcik-Leese biên tập, Zephyr Press, 2004.
 
“Thời của những nhà thơ thức tỉnh” dịch từ bản tiếng Anh “The Time of Awakened Poets” của Adam Zdrodowski & Joel Leonard Katz. “Cuộc đời trệu trạo”, “Mùa xuân”, “Mao” và “Thi đấu“ dịch từ bản tiếng Anh “The Munchiness of Life”, “Spring”, “Mao” và  “A Match” của Agnieszka Pokojska trong tập thơ song ngữ Carnivorous Boy Carnivorous Bird – Poetry from Poland, do Marcin Baran tuyển chọn, Anna Skucinska và Elzbieta W ójcik-Leese biên tập, Zephyr Press, 2004.
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021