thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
19 bài thơ từ tập TƯỜNG THUẬT TỪ THÀNH PHỐ BỊ VÂY HÃM
Bản dịch của Lê Ðình Nhất-Lang
 
 
 
 
ZBIGNIEW HERBERT
(1924-1998)
 
 
19 bài thơ từ tập
Tường thuật từ thành phố bị vây hãm
và những bài thơ khác
 
 
Raport z oblężonego miasta [Tường thuật từ thành phố bị vây hãm] là tập thơ thứ sáu của Zbigniew Herbert, được coi là “chấn động của thập niên” trong thi ca Ba Lan, theo nhà thơ Stanisław Barańczak. Trong lời giới thiệu bản dịch tiếng Anh, Report from the Besieged City and other poems [Tường thuật từ thành phố bị vây hãm và những bài thơ khác](New York: The Ecco Press, 1985), các dịch giả John Carpenter và Bogdana Carpenter cho biết tập thơ được in lần đầu tiên năm 1983 bởi những tù nhân ở nhà tù Rakowiecka ở Warsaw. Ấn bản này bị tịch thu gần như toàn bộ. Bản thứ hai được Wydawnictwo Dobra Powszedniego xuất bản ở Warsaw đầu năm 1984. Một bản thứ ba được Kultura (Maison Litérature) xuất bản tại Paris cuối năm 1983. Bản dịch tiếng Anh gồm đầy đủ 35 bài và dựa trên bản đánh máy của tác giả.
 
Xin gửi đến bạn đọc của Tiền Vệ 19 bài được dịch ra Việt ngữ sau đây:
 
1) Những gì tôi thấy
2) Từ trên đỉnh cầu thang
3) Linh hồn ông Cogito
4) Ðiếu ca
5) Ông Cogito–ngày trở về
6) Ông Cogito và trí tưởng tượng
7) Gửi Ryszard Krynicki–một lá thư
8) Ông Cogito và tuổi thọ
9) Những giấc mơ đáng hổ thẹn
10) Linh tính về thời mạt thế của ông Cogito
11) Bài hát bên nôi
12) Claudius thần thánh
13) Con quái vật của ông Cogito
14) Những kẻ giết vua
15) Damastes (cũng có tên là Procrustes) lên tiếng
16) Kẻ bị bỏ rơi
17) Phiên xử
18) Người đưa tin
19) Ông Cogito về nhu cầu chính xác
 
Những bài này được dịch từ bản tiếng Anh của John Carpenter và Bogdana Carpenter: “What I Saw,” “From the Top of the Stairs,” “Mr. Cogito’s Soul,” “Lament,” “Mr. Cogito—the Return,” “Mr. Cogito and the Imagination,” “To Ryszard Krynicki—a Letter,” “Mr. Cogito and Longevity,” “Shameful Dreams,” “Eschatological Forebodings of Mr. Cogito,” “Cradle Song,” “The Divine Claudius,” “The Monster of Mr. Cogito,” “The Murderers of Kings,” “Damastes (Also Known As Procrustes) Speaks,” “The Abandoned,” “The Trial,” “The Messenger,” và “Mr. Cogito on the Need for Precision”
 
 

Những gì tôi thấy

Ðể tưởng nhớ Kazimierz Moczarski
 
Tôi thấy những nhà tiên tri đang bứt bộ râu dán cằm
tôi thấy bọn mạo danh đang gia nhập những giáo phái hành xác
bọn đồ tể cải trang trong da cừu
những kẻ từng trốn cơn giận dữ của đám đông
đang thổi ống sáo bịt đầu(*)
 
tôi thấy tôi thấy
 
    tôi thấy một người đàn ông đã từng bị tra tấn
    giờ đây ông ngồi bình an trong vòng tay gia đình
    nói chuyện tếu ăn xúp
    tôi nhìn cái miệng mở
    những hàng lợi của ông—hai bụi cây gai bị tước hết vỏ
    tôi thấy nguyên cả sự lõa lồ của ông
    nguyên cả sự nhục nhã
 
    sau này
    một mít tinh trọng thể
    nhiều người nhiều hoa
    ngột ngạt
    có người nói tràng giang đại hải về những sự trệch hướng
    tôi nghĩ đến cái miệng bị trệch hướng của ông
 
có phải đây là màn cuối
trong vở kịch của Vô Danh
nhàm như một tấm vải liệm
đầy tiếng khóc bị đè nén
và cái cười khẩy của những người
ném một tiếng thở dài nhẹ nhõm
rằng lần này chuyện cũng xong
và sau khi dẹp sạch những đại thụ chết
từ từ
kéo lên
 
bức màn đẫm máu
 
1956
 
----------
(*) “block-flute” trong bản tiếng Anh
 
 
 

Từ trên đỉnh cầu thang

 
Dĩ nhiên
những người đang đứng trên đỉnh cầu thang
biết
họ biết tất cả
 
với chúng tôi thì khác
những người quét dọn của những quảng trường
con tin của một tương lai tốt đẹp hơn
những người ở trên đỉnh cầu thang
lâu lâu mới hiện đến chúng tôi
với ngón tay im lặng luôn trên miệng
 
chúng tôi kiên nhẫn
vợ chúng tôi mạng những tấm áo chúa nhật
chúng tôi bàn tán về những khẩu phần thực phẩm
bóng đá giá giày
trong khi vào thứ bảy chúng tôi ngửa đầu ra sau
và nhậu say
 
chúng tôi không phải bọn
siết chặt nắm đấm
vung xiềng xích
nói và đặt những câu hỏi
trong cơn sốt của kích động
thúc giục nổi dậy
luôn mồm nói và đặt câu hỏi
 
đây là chuyện thần tiên của bọn ấy—
chúng tôi sẽ lao tới cầu thang
và phục kích bắt lấy họ
đầu của những người đang đứng trên đỉnh
sẽ lăn xuống cầu thang
và sau cùng chúng tôi sẽ nhìn
xuống những gì có thể thấy từ tầm cao đó
ôi tương lai
ôi nỗi trống trải
chúng tôi không ham cảnh
đầu người lăn lóc
chúng tôi biết đầu mọc lại dễ dàng làm sao
và trên đỉnh sẽ luôn còn
một hay ba
trong khi ở dưới đáy là màu đen của chổi và xẻng
 
thỉnh thoảng chúng tôi mơ
những người trên đỉnh cầu thang
đi xuống
nghĩa là đến với chúng tôi
và trong khi chúng tôi nhai bánh mì trên giấy báo
họ nói
 
    —bây giờ ta hãy nói chuyện
    người với người
    những gì các bích chương la toáng lên là không thật
    bọn ta mang sự thật trong đôi môi khoá chặt
    đúng là tàn nhẫn và quá sức nặng nề
    nên bọn ta tự mình mang gánh nặng
    bọn ta đâu sung sướng gì
    bọn ta sẽ vui vẻ ở lại
    chỗ này
 
đây là những giấc mơ dĩ nhiên
chúng có thể thành sự thật
nên chúng tôi sẽ
tiếp tục canh tác
vuông đất bùn của chúng tôi
vuông đá
 
với một cái đầu nhẹ tênh
một điếu thuốc lá trên tai
và không một giọt hy vọng trong tim
 
1956
 
----------
Bài thơ trên được viết sau cuộc nổi dậy của công nhân ở Poznan năm 1956, năm sau được đăng trên báo Po Prostu, nhưng bị cấm đăng trong bất cứ tập thơ nào của Herbert (chú thích của các dịch giả tiếng Anh).
 
 
 

Linh hồn ông Cogito

 
Trong quá khứ
ta biết được từ sử sách
nàng(*) sẽ đi ra khỏi thể xác
khi tim ngừng
 
với hơi thở cuối
nàng nhẹ nhàng ra đi
tới những cánh đồng xanh lơ của trời
 
    linh hồn ông Cogito
    hành động cách khác
 
    ngay trong đời ông nàng rời xác ông
    không một lời từ giã
 
    bao tháng bao năm nàng sống
    trên những lục địa khác
    bên ngoài các giới tuyến
    của ông Cogito
 
    khó mà tìm thấy địa chỉ nàng
    nàng không gửi về chút tin tức nào của mình
    tránh mọi tiếp xúc
    không viết thư
 
    không ai biết khi nào nàng sẽ trở lại
    có lẽ nàng đã ra đi vĩnh viễn
 
ông Cogito phấn đấu để vượt qua
cảm giác ghen tuông thấp hèn
 
ông nghĩ tốt về linh hồn ông
nghĩ về nàng với lòng dịu dàng
 
không nghi ngờ chi nàng cũng phải sống
trong xác những kẻ khác
 
chắc chắn là có quá ít linh hồn
cho cả nhân loại
 
ông Cogito chấp nhận số phận
ông không có lối thoát nào nữa
 
ông còn định nói
—linh hồn của chính tôi của tôi
 
ông nghĩ về linh hồn ông một cách trìu mến
ông nghĩ về linh hồn ông với lòng dịu dàng
 
    do đó khi nàng xuất hiện
    bất ngờ
    ông không chào đón nàng bằng lời
    —tốt quá em đã trở lại
 
    ông chỉ nhìn nàng từ một góc xéo
    khi nàng ngồi trước gương
    chải mái tóc nàng
    rối và bạc
 
----------
(*) “Linh hồn” của ông Cogito mang tính nữ phần lớn vì từ “linh hồn” trong tiếng Ba Lan thuộc giống cái (chú thích của các dịch giả tiếng Anh).
 
 
 

Ðiếu ca

Ðể tưởng nhớ mẹ tôi
 
Và giờ đây bà có trên đầu những đám mây nâu của rễ
nhành huệ mảnh mai của muối trên thái dương chuỗi hạt của cát
khi bà ra khơi dưới đáy con thuyền qua những tinh vân sủi bọt
 
một dặm bên ngoài chúng ta nơi dòng sông đổi thay
hiện-hiện-ẩn-ẩn như ánh sáng trên một ngọn sóng
thực ra bà cũng chẳng khác—bị bỏ rơi như tất cả chúng ta
 
 
 

Ông Cogito—ngày trở về

 
       1
 
Ông Cogito
đã quyết tâm trở về
với vòng tay sắt đá
của quê hương ông
 
quyết định đột ngột
ông sẽ hối tiếc một cách cay đắng
 
nhưng không thể nào ông chịu đựng được nữa
những câu nói rỗng hàng ngày
—comment allez-vous
—wie geht’s
—how are you
 
thoạt nhìn đơn giản những câu hỏi
cần một câu trả lời phức tạp
 
ông Cogito xé rách
các bông băng của sự dửng dưng lịch sự
 
ông đã hết tin ở tiến bộ
ông quan tâm tới vết thương của chính mình
 
những cảnh phô trương sự sung túc
đổ đầy trong ông nỗi nhàm chán
ông trở nên gắn bó riêng
với một cây cột Dorian
ngôi thánh đường San Clemente
chân dung một người đàn bà nào đó
một cuốn sách ông đã không có thì giờ đọc
và vài điều nhỏ nhặt khác
 
do đó ông trở về
kia ông thấy rồi
biên giới
một cánh đồng cày phẳng
những tháp súng đầy sát khí
những bụi rậm kẽm gai
 
không tiếng động
những cánh cửa bọc sắt
từ từ đóng lại sau lưng ông
 
và đây rồi
ông đang
một mình
trong nhà kho tàng
của mọi bất hạnh
 
       2
 
vậy tại sao ông trở về
câu hỏi của những người bạn
ở thế giới tốt hơn
 
ông có thể ở lại đây
bằng cách nào đó kiếm sống được
 
giao phó vết thương
cho dung dịch tẩy vết hoá học
 
bỏ nó lại phòng đợi
của những phi trường mênh mông
 
vậy tại sao ông đang trở về
 
—với dòng sông tuổi thơ
—với những sợi rễ rối
—với vòng ôm siết của ký ức
—với bàn tay khuôn mặt
cháy nám trên vỉ nướng của thời gian
 
thoạt nhìn đơn giản những câu hỏi
cần một câu trả lời phức tạp
 
có lẽ ông Cogito trở về
để đưa ra một hồi đáp
 
cho tiếng thì thào của nỗi sợ
cho hạnh phúc bất khả đắc
cho cú đấm đánh từ phía sau
cho câu hỏi chết người
 
 
 

Ông Cogito và trí tưởng tượng

 
       1
 
Ông Cogito không bao giờ tin cậy
những tiểu xảo của trí tưởng tượng
 
dương cầm trên đỉnh núi Alps(*)
chơi những buổi hoà nhạc giả tạo đối với ông
 
ông không thích những mê cung
con Nhân Sư làm ông đầy kinh tởm
 
ông sống trong một căn nhà không tầng hầm
không gương hay phép biện chứng
 
những rừng rậm với bao hình ảnh rối rắm
không phải là nhà ông
 
ông ít khi bay bổng
trên đôi cánh một ẩn dụ
để rồi ông rớt như Icarus
vào lòng Mẹ Vĩ Ðại
 
ông rất thích những câu lặp lại
những lời giải thích
idem per idem
 
rằng con chim là con chim
sự nô lệ nghĩa là sự nô lệ
con dao là con dao
cái chết vẫn là cái chết
 
ông yêu
chân trời bằng phẳng
một đường kẻ thẳng băng
trọng lực của quả đất
 
       2
 
ông Cogito sẽ được xếp loại
giữa các loài minores
 
ông sẽ chấp nhận một cách thờ ơ phán quyết
của những học giả tương lai ngành văn chương
 
ông dùng trí tưởng tượng
cho những ý định hoàn toàn khác
 
ông muốn biến nó thành
một công cụ của lòng thương
 
ông muốn hiểu tới tận cùng
 
—đêm của Pascal
—bản chất của một viên kim cương
—nỗi sầu khổ của các vị tiên tri
—cơn thịnh nộ của Achilles
—cơn điên của những kẻ giết người
—những giấc mơ của Mary Stuart
—nỗi sợ thời đồ đá
—nỗi tuyệt vọng của những người Aztec cuối cùng
—những cơn quằn quại dài trước lúc chết của Nietzsche
—niềm vui của người hoạ sĩ Lascaux
—sự vươn lên và suy tàn của một cây sồi
—sự vươn lên và suy tàn của La Mã
 
và như thế đem người chết trở lại đời sống
bảo tồn giao ước
 
trí tưởng tượng của ông Cogito
có chuyển động của một quả lắc
 
nó băng qua với sự chính xác
từ khổ đau tới khổ đau
 
không có chỗ trong nó
cho những ngọn lửa nhân tạo của thi ca
 
ông muốn mãi trung thành
với sự trong sáng vô định
 
----------
(*) “Dương cầm trên đỉnh núi Alps” lấy từ bài “Après le Déluge” trong tập thơ Illuminations của Rimbaud (chú thích của các dịch giả tiếng Anh).
 
 
 

Gửi Ryszard Krynicki(*)—một lá thư

 
Sẽ chẳng còn lại nhiều đâu Ryszard thực chẳng nhiều đâu
thi ca của thế kỷ điên này chắc chắn Rilke Eliot
vài pháp sư siêu phàm khác những kẻ biết bí quyết
cầu hồn lên một hình hài chứa từ ngữ chống nổi tác dụng của thời gian mà không có nó
thì không câu nào đáng nhớ và lời nói như cát
 
những cuốn vở thời đi học kia của chúng ta bị dày vò một cách chân thành
bằng những vệt mồ hôi nước mắt máu sẽ giống
như lời của một bài hát không nhạc cho người thầy cò vĩnh cửu
chính trực một cách đáng trân trọng hơn là biểu hiện
 
quá dễ dàng chúng ta đi đến chỗ tin rằng cái đẹp không cứu rỗi
rằng nó dẫn dắt những kẻ vô tư đi từ giấc mơ đến giấc mơ đến cái chết
chúng ta chẳng ai biết làm sao đánh thức nàng tiên của một cây bạch dương
đọc chữ viết của những đám mây
chính vì vậy con ngựa độc sừng sẽ không băng qua đường chúng ta
chúng ta sẽ không làm sống lại một con tàu trong vịnh một con công một bông hồng
chỉ sự trần truồng còn lại cho chúng ta và chúng ta đứng trần truồng
ở bên phải bên tốt hơn của bộ tranh ba tấm
cuộc Phán Xét Cuối Cùng
 
chúng ta rước lấy những việc công trên đôi vai gầy
ghi lại khổ đau cuộc chiến đấu với chuyên chế với dối trá
nhưng—bạn phải nhìn nhận—chúng ta có những đối thủ nhỏ nhen đến đê tiện
nên có đáng chăng để hạ thấp ngôn từ hiển linh
xuống tiếng bép xép của bục diễn văn bãi bọt đen của các xấp báo
 
trong thơ chúng ta Ryszard có thật ít niềm vui—con gái của các thần linh
quá ít hoàng hôn chói lọi những gương soi những vòng hoa của mê đắm
chẳng có gì ngoài những thánh ca ảm đạm những lời lắp bắp vô loài
những bình tro trong khu vườn cháy rụi
 
    mặc kệ số phận những phán quyết của lịch sử những tội ác con người
    sức mạnh nào cần có để thì thầm
    trong khu vườn của sự phản bội—một đêm thinh lặng
 
    sức mạnh nào của tâm hồn cần có để giáng xuống
    đập một cách mù quáng bằng tuyệt vọng lên tuyệt vọng
    một nháng lửa lời nói của sự hoà giải
 
    để cho vòng tròn nhảy múa sẽ còn mãi trên cỏ dày
    để cho sự ra đời của một đứa bé và mỗi khởi đầu đều được ban phúc
    những tặng phẩm của không khí đất và lửa và nước
 
điều này tôi không biết—bạn tôi ơi—và là tại sao
tôi gửi bạn những vấn đề hóc búa của con cú trong đêm
một cái ôm ấm áp
                          những lời chào từ cái bóng của tôi
 
----------
(*) Ryszard Krynicki (1943-) là một thành viên trẻ và chủ chốt của nhóm nhà thơ “Nowa Fala” hay Ðợt Sóng Mới hoạt động mạnh vào cuối thập niên 1960 và những năm 70. Sau khi xuất bản hai cuốn sách, Krynicki chính thức bị cấm xuất bản trong nước Ba Lan kể từ 1977. Người đọc có thể biết thêm về ông và đọc bản dịch một số thơ của ông trong phần tác phẩm của Ryszard Krynicki trên Tiền Vệ.
 
 
 

Ông Cogito và tuổi thọ

 
       1
 
Ông Cogito
có thể tự hào
 
ông đã băng qua biên cương cuộc đời
của nhiều động vật khác
 
    khi một con ong thợ
    về nghỉ hưu vĩnh viễn
    ông Cogito hút sữa
    đang hưởng sức khoẻ tuyệt vời
 
    khi cái chết tàn ác
    lấy đi con chuột nhà
    ông khỏi hẳn bệnh ho gà
    tìm thấy tiếng nói và lửa
 
    nếu chúng ta tin
    các nhà thần học của loài chim
    linh hồn chim én
    bay lên thiên đường
    sau mười
    mùa xuân nơi mặt đất
 
    vào tuổi này
    tiểu Sư Phụ Cogito
    đang học lớp bốn
    trường tiểu học với thành tựu không đều
    và bắt đầu để ý đến phụ nữ
 
    rồi
    ông thắng Ðệ Nhị Thế Chiến
    (một chiến thắng khả nghi)
    đúng vào lúc một con dê
    tiêu diêu về nơi Anh Hùng Ðại Ðiện(*) của loài dê
 
    ông trưng ra thành quả không tệ
    bất kể vài nhà độc tài
    ông vượt lằn ranh một sống hai chết giữa thế kỷ
    đầm đìa máu
    nhưng sống sót
 
    ông thắng
    con cá chép
    con cá sấu
    con cua
   
    bây giờ ông thấy mình
    ở giữa giờ khắc cuối
    của một con lươn
    và giờ khắc cuối
    của một con voi
 
    tại đây
    nói thật tình
    mọi tham vọng của ông Cogito
    đến hồi kết thúc
 
       2
 
nằm chung hòm với một con voi
chẳng làm ông sợ chút nào
 
ông không đói tuổi thọ
như một con vẹt
hay Hippoglassus vulgaris
 
cũng như
con đại bàng vút lên cao
con rùa mặc áo giáp
con thiên nga ngờ nghệch
 
cho tới cùng
ông Cogito muốn tụng ca
cái đẹp của dòng thời gian
 
đó là tại sao ông không tợp Gelée Royale
hay uống thuốc tiên
không ký kết với Mephisto
 
bằng sự chăm sóc của một người làm vườn giỏi
ông trồng tỉa những nếp nhăn trên mặt
 
khúm núm nhận lấy chất vôi
đọng trong các tĩnh mạch
 
ông hân hoan với những cơn lú lẫn
ông từng bị giày vò bởi ký ức
 
sự bất tử
từ hồi nhỏ
đặt ông vào một trạng thái
sợ hãi run rẩy
 
    tại sao phải ganh đua với các thần linh?
 
    —vì những hoạ đồ tinh đẩu
    —vì một chính quyền tệ hại
    —vì dục vọng không thoả
   
    —vì một cái ngáp bao la
 
----------
(*) “Valhalla”: theo huyền thoại Bắc Âu đây là cung điện nơi những anh hùng chết trận vui chơi trong tiệc rượu đời đời.
 
 
 

Những giấc mơ đáng hổ thẹn

 
Những biến dạng ngược xuống các cội nguồn lịch sử
thiên đường của tuổi thơ đánh mất trong một giọt nước
 
    những trốn chạy rượt đuổi qua những hành lang của chuột
    những cuộc phiêu lưu của con bọ xuống đáy một bông hoa
    lần tỉnh dậy thình lình trong một ổ chim oanh
 
    hay phóng chạy dáo dác trên tuyết trong da con sói
    và bên bờ vực một tiếng hú lồng lộng trước trăng tròn
    nỗi sợ đột khởi khi gió mang tới mùi một sát thủ
 
    trọn mặt trời lặn trong cặp sừng một con hươu
    giấc mơ xoáy trôn ốc của một con rắn
    niềm cảnh giác dựng đứng của một con cá dẹt
 
    tất cả được ghi lại trong cuốn đồ phả của cơ thể bọn ta
    và khắc vào tảng đá của đầu sọ như chân dung của tổ tiên
    nên bọn ta lặp lại những chữ của ngôn ngữ bị quên
 
    bọn ta nhảy múa ban đêm trước những tượng thú
    mặc áo bằng da vảy lông và giáp cứng
    vô tận là lời kể về tội lỗi của bọn ta
 
    xin đừng xua đuổi bọn ta hỡi các linh hồn thiện
    bọn ta mò mẫm trên những đại dương và tinh tú đã quá lâu
    bọn ta mệt mỏi quá mức hãy thâu nhận bọn ta vào bầy
 
 
 

Linh tính về thời mạt thế của ông Cogito

 
       1
 
Bao phép màu
trong đời ông Cogito
bao thăng trầm của vận may
những mê say và những sụp đổ
cõi vĩnh hằng do đó có lẽ sẽ
là nỗi thất vọng cho ông
 
không du lịch
bạn bè
sách
 
thay vào đó
thời gian thừa thãi
như một bệnh nhân yếu phổi
như một hoàng đế lưu vong
 
có lẽ ông sẽ quét dọn
quảng trường lớn của Luyện Ngục
hoặc đứng chán ngán trước gương
của một tiệm hớt tóc bỏ hoang
 
không một cây bút
mực
giấy
 
không kỷ niệm của tuổi thơ
hay lịch sử thế giới
đồ phả các loài chim
 
như mọi người khác
ông sẽ dự
những lớp xoá bỏ
các thói quen trần tục
 
uỷ ban tuyển mộ
làm việc rất chính xác
 
nhặt nhổ hết mọi dấu vết của các giác quan
của những ứng viên vào thiên đàng
 
ông Cogito sẽ tự biện hộ
ông sẽ kháng cự quyết liệt
 
       2
 
sẵn sàng nhất ông sẽ từ bỏ khứu giác
ông đã dùng nó một cách vừa phải
chưa bao giờ theo dấu vết một ai
 
đồng thời ông sẽ bỏ đi không tiếc
vị máu
vị đói
 
trên bàn của uỷ ban tuyển mộ
ông sẽ nộp những cánh hoa của đôi tai ông
 
trong đời ông ở trần gian
ông là một người yêu âm nhạc của tĩnh lặng
 
ông sẽ chỉ
giải thích cho các vị thần nghiêm khắc
 
rằng các giác quan nhìn và chạm
không muốn rời bỏ ông
 
rằng ông sẽ tiếp tục cảm thấy trong người ông
mọi mũi gai trần thế
những mảnh vỡ
những vuốt ve
ngọn lửa
những nhát roi của biển
 
rằng sẽ vẫn còn ông tiếp tục nhìn thấy
cây thông trên một sườn núi
bảy ngọn nến của bình minh
một hòn đá gân xanh
 
ông sẽ nhượng bộ mọi tra tấn
mọi thuyết phục nhẹ nhàng
nhưng cho tới cùng ông sẽ bảo vệ
cảm giác hoành tráng của đớn đau
 
và vài hình ảnh tan rã
nơi đáy con mắt kiệt quệ
 
       3
 
biết đâu
có lẽ ông sẽ tìm ra cách
thuyết phục các thiên thần
ông không có khả năng
để phục vụ
thiên đàng
 
và họ sẽ cho phép ông trở về
bên con đường mòn bị cỏ lấp
bên bờ một biển trắng
tới cái hang của khởi đầu
 
 
 

Bài hát bên nôi

 
Những năm ngắn dần ngắn dần
                                            những tu sĩ ở đền Ammon
phát hiện một Ðèn Cháy Vĩnh Hằng dùng ít dầu đi mỗi năm
nghĩa là thế giới đang nhỏ lại
                                         không gian thời gian và người
 
Quan sát của các tu sĩ được ban xuống từ Plutarch(1)
gây ra lời càu nhàu giận dữ trong giới triết gia
những kẻ tuyệt vọng vì khả thể đổi thay của con người
và muốn vũ trụ chiếu sáng cho ta như một kiểu mẫu
 
Có vẻ như phi lý chứng minh của cái đèn
lại phù hợp với kinh nghiệm của những kẻ đã bỏ lại
hàng quán trạm xá nhà cửa băng qua luồng thác của ảo giác
và giờ đây đi trên sườn dốc thoai thoải nơi tất cả chúng ta đều đi
 
Họ biết
    —ngày và đêm co lại
 
    —một bông hồng hái lúc ban mai rụng cánh trong kinh hoảng
       đến tối nó chỉ còn là một cụm nhuỵ cháy
 
    —giữa cơn buồn ngủ tháng Mười Hai và giấc chợp mắt tháng Tám
       chỉ một khoảnh khắc trôi qua không một biến động và luyến tiếc
 
    —luôn luôn ít dần thư từ những chuyến du lịch những ngạc nhiên
 
    —một cây nến mỏng như cây kim trong những ngón tay run rẩy
       soi đường từ một bức tường tới bức tường khác
       những tấm gương đông lạnh từ chối niềm an ủi
 
    —người thân yêu chết đi nhiều như những bờ cát và trông như cát
       những phòng trọ trong trí nhớ ta không chấp nhận ai hết
 
    —bụi lắng xuống trong những phòng trống và viết hồi ký của nó
 
    —thành phố nơi ta ra đời mờ dần và ngay cả Ca d’Oro(2)
       cũng không còn toả sáng khi mọi nơi chốn ta từng yêu mến
       đều chìm vào biển trên những đầm nước mặn bấp bênh
 
Ðèn Cháy Vĩnh Hằng dùng ít dầu đi mỗi năm
 
Ðây là cách vũ trụ hiền lành đắp chăn cho ta ngủ
 
----------
(1) Mestrius Plutarchus (khoảng 46-127): sử gia Hy Lạp, sau trở thành vị trưởng lão trong đền thờ Apollo ở Delphi có nhiệm vụ diễn giải các điềm báo của nữ tiên tri Pythia.
(2) Ca’ d’Oro (“nhà vàng,” tên chính thức là Palazzo Santa Sofia): một trong những điện đẹp và cổ nhất ở Venice. Người đọc có thể vào trang web sau đây của Wikipedia để xem hình và tìm hiểu thêm: http://en.wikipedia.org/wiki/Ca_d'Oro.
 
 
 

Claudius thần thánh

 
Người ta nói rằng
ta được tạo ra bởi Thiên Nhiên
nhưng không hoàn thành
như một bức tượng dở dang
một phác hoạ
một đoạn hỏng của một bài thơ
 
nhiều năm trời ta đóng vai ngu dốt
những tên ngốc thường sống yên ổn hơn
ta lặng lẽ chịu đựng những lời sỉ vả
nếu ta đem trồng tất cả hột
thiên hạ ném vào mặt ta
một rừng ô-liu nhỏ sẽ trồi lên
một ốc đảo mênh mông những cây cọ
 
ta tiếp nhận một nền giáo dục đa diện
Livy các nhà tu từ học các triết gia
ta nói tiếng Hy Lạp như một người Athens
mặc dù Plato ta nhớ
chỉ ở tư thế đang nằm
 
ta hoàn tất việc học
ở những quán rượu cạnh bến tàu và nhà chứa
những từ điển không thành văn nọ của tiếng La-tinh thông tục
những kho tàng không đáy của tội lỗi và dục vọng
 
sau vụ sát hại Caligula
ta trốn sau màn
họ lôi ta ra bằng vũ lực
ta đã không kịp bắt chước một vẻ mặt thông minh
khi họ ném xuống chân ta cả thế giới
nực cười và phẳng lặng
 
từ đó ta trở thành hoàng đế
cần cù nhất trong lịch sử hoàn vũ
một Hercules của hệ thống thư lại
ta hồi tưởng với niềm hãnh diện
luật pháp khoan dung của ta
cho phép phát ra
tiếng động của cái bụng trong những bữa tiệc
 
ta phủ nhận tội tàn ác thường được gán cho ta
trên thực tế ta chỉ đãng trí
 
vào ngày có cuộc thảm sát của Messalina—
vật tội nghiệp đó bị giết ta nhận là theo lệnh của ta—
ta hỏi giữa đại tiệc—Sao Phu Nhân chưa đến
một thinh lặng chết chóc trả lời ta
quả thật ta quên
 
thỉnh thoảng gặp chuyện ta mời
người chết đến chơi trò xúc xắc
ta phạt kẻ không đến một số tiền phạt
với bao nhiêu công việc nặng nhọc chồng chất
ta có thể đã lầm lẫn những chi tiết
 
hình như
ta đã ra lệnh ba mươi lăm nghị sĩ
và các kỵ binh của chừng ba đại đội
phải bị xử tử
ờ có gì đâu
bớt một chút màu tím
ít đi nhẫn vàng
mặt khác—và điều này chẳng phải chuyện nhỏ—
thêm chỗ trong rạp hát
 
chẳng kẻ nào chịu hiểu
rằng mục đích của những hành động này rất phi thường
ta mong mỏi làm cái chết thành quen thuộc với người ta
làm cùn cạnh sắc của nó
mang nó xuống chiều kích vô vị hàng ngày
của một sự phiền hà nho nhỏ hay chứng sổ mũi
 
và đây là bằng chứng
cho cái vi tế của ta về cảm xúc
ta đã dời tượng của Augustus hiền từ
đi khỏi pháp trường
để khối đá hoa cương nhạy cảm
khỏi nghe thấy những tiếng rống của tội nhân
 
đêm của ta dành hết cho nghiên cứu
ta đã viết lịch sử của người Etruscans
một lịch sử của Carthage
một đoản ca về Thổ tinh
một đóng góp cho lý thuyết về các trò chơi
và một chuyên luận về nọc rắn
 
chính ta là người đã cứu Ostia
khỏi cuộc xâm lăng của cát
ta tháo đầm lầy
xây cống
từ đó trở đi đã dễ dàng hơn
để thành La Mã rửa sạch máu
 
ta mở rộng biên cương đế quốc
ra tới Brittany Mauretania
và nếu ta nhớ đúng thì Thrace
 
cái chết của ta là do vợ ta Agrippina
và một niềm đam mê nấm không thể kềm chế
những quả nấm—tinh tuý của rừng xanh—trở thành cốt tuỷ của cái chết
 
hậu duệ—còn tưởng nhớ với lòng kính trọng phải phép và danh dự
ít nhất một ưu điểm của Claudius thần thánh
ta đã thêm ký hiệu và âm thanh mới vào bảng chữ cái của chúng ta
mở rộng phạm vi của ngôn ngữ cũng chính là phạm vi của tự do
 
các chữ cái ta đã tìm ra—những đứa con gái cưng—Digamma và Antisigma
dìu cái bóng của ta
khi ta lần theo con đường bằng những bước lảo đảo đi tới vùng đất tối tăm Orkus
 
----------
Ðể rõ thêm về cái khôi hài đen của Herbert trong hình ảnh cuối cùng của bài thơ, người đọc có thể xem hình (và đọc giai thoại về) các chữ cái của Hoàng Ðế Claudius tại trang web của Wikipedia sau đây: http://en.wikipedia.org/wiki/Claudian_letters.
 
 
 

Con quái vật của ông Cogito

 
       1
 
Thánh George may mắn
từ trên yên ngựa hiệp sĩ của ông
có thể lượng định chính xác
sức mạnh và mọi cử động của con rồng
 
nguyên tắc đầu tiên của chiến lược
là đánh giá đối thủ một cách chính xác
 
    ông Cogito
    thì ở vị thế tệ hơn
 
    ông ngồi trên cái yên thấp
    của một thung lũng
    bị che kín bằng sương mù
 
    qua sương mù không thể nào nhận thấy
    những con mắt rực lửa
    những chiếc móng tham lam
    những hàm răng
 
    qua sương mù
    ta thấy mỗi
    sự lung linh của hư vô
 
        con quái vật của ông Cogito
        không có kích thước
 
        nó khó mô tả
        vượt mọi định nghĩa
 
        nó như một cơn áp thấp mênh mang
        trải ra khắp đất nước
 
        nó không thể bị chọc thủng
        bằng một cây bút
        bằng một cuộc tranh luận
        hay ngọn giáo
 
        nếu không nhờ trọng lượng ngộp thở của nó
        và cái chết mà nó truyền xuống
        người ta sẽ nghĩ
        nó là ảo giác
        của một trí tưởng tượng bệnh hoạn
 
        nhưng nó hiện hữu
        vì chắc chắn nó hiện hữu
 
        như carbon monoxide nó tràn ngập
        nhà cửa đền đài chợ búa
 
    đầu độc giếng
    phá huỷ cấu trúc của trí óc
    bọc bánh mì bằng mốc
 
    bằng chứng của sự hiện hữu của con quái vật
    là các nạn nhân của nó
 
    không phải bằng chứng trực tiếp
    nhưng đủ
 
       2
 
những người biết điều nói
ta có thể sống chung
với con quái vật
 
ta chỉ phải tránh
di chuyển đột ngột
phát ngôn đột ngột
 
nếu có một đe doạ
hãy bắt chước hình dạng
của một hòn đá hay một cọng lá
 
hãy nghe Thiên Nhiên khôn ngoan
đề nghị biện pháp đổi màu nguỵ trang
 
rằng ta hãy thở cạn thôi
giả đò như ta không có đó
 
    ông Cogito tuy nhiên
    không muốn một cuộc đời đầy trá nguỵ
 
    ông thà chiến đấu
    với con quái vật
    trên nền vững chắc
 
    vì vậy ông cất bước lúc bình minh
    vào một vùng ngoại ô say ngủ
    được trang bị cẩn thận
    bằng một vật nhọn dài
 
    ông lên tiếng gọi con quái vật
    trên các con đường trống trải
 
    như một tên lính chửi bạo dạn
    của một đạo quân không hiện hữu
 
    ông gọi—
    ra đi đồ hèn nhát đáng khinh bỉ
 
    qua sương mù
    ta thấy mỗi
    cái mũi khổng lồ của hư vô
   
        ông Cogito muốn xông vào
        trận chiến không tương xứng
 
        nó phải xảy ra
        có lẽ sắp sửa
 
        trước khi có
        một cú rơi khỏi quán tính
        một cái chết tầm thường không vinh quang
        sự ngộp thở do tính không hình dạng
 
 
 

Những kẻ giết vua

 
Như Regis xác nhận bọn họ ai nấy giống nhau
như những cặp sinh đôi Ravaillac và Princip Clément và Caserio
nhiều người xuất thân từ gia đình có người bị động kinh và người tự tử
tuy nhiên họ khoẻ mạnh nghĩa là bình thường
thường là trẻ rất trẻ và cứ như vậy họ còn trong vĩnh cửu
 
nỗi cô đơn của họ hàng tháng hàng năm trời họ mài những mũi dao
và trong những khu rừng ngoại thành học bắn một cách chu đáo
họ tập dợt cuộc ám sát sống một mình cần mẫn và rất thuần phác
họ đem những đồng xu họ kiếm được về cho mẹ chăm sóc các em và không rượu chè
không bạn bè hay gái
 
                                 sau khi hạ thủ thành công họ tự nộp mình không chống trả
can đảm chịu đựng tra tấn không xin ân xá
phủ nhận mọi đồng đảng được gợi ý trong cuộc điều tra
không có một âm mưu nào thật ra họ một mình
 
                                 sự chân thành và mộc mạc bất nhân của họ
chọc giận các quan toà thầy cãi công chúng thèm thuồng chuyện giật gân
 
                                 bọn người chuyên gửi linh hồn
sang bên kia kinh ngạc trước sự điềm tĩnh của tử tội trong giờ phút cuối cùng
 
điềm tĩnh không chút giận dữ hối tiếc hay ngay cả căm thù
gần như rạng rỡ
 
                                 cho nên óc họ bị sục sạo
tim đem cân gan bị cắt tuy nhiên không sự sai biệt nào
so với điển hình được phát hiện
 
chẳng ai trong họ đổi được hướng đi lịch sử
nhưng tín hiệu đen tối đã đi từ thế hệ trước tới thế hệ sau
để những bàn tay nhỏ này đáng được cân nhắc
những bàn tay nhỏ trong lòng chúng sự chắc chắn của đòn đánh đang run rẩy
 
----------
Theo chú thích của các dịch giả tiếng Anh, Herbert nói rằng “Regis” là một y sĩ Áo và tác giả một cuốn sách về những “người vĩ đại” theo quan điểm y khoa. François Ravaillac (1578-1610) là một hiệu trưởng và cựu tu sĩ người đã ám sát vua Pháp Henri IV. Gavrilo Princip (1895-1918) ám sát hoàng tử Áo Francis Ferdinand và vợ tại Sarajevo năm 1914. Jacques Clément (1567-1589) là một tu sĩ Pháp dòng Dominico đã ám sát Henri III của Pháp. Sante Ieronimo Caserio (1873-1894), một người Ý theo chủ nghĩa vô chính phủ, đâm chết Sadi Carnot, tổng thống của Cộng Hoà Pháp.
 
 
 

Damastes (cũng có tên là Procrustes) lên tiếng

 
Ðế quốc di động của ta giữa Athens và Megara
ta trị vì một mình trên những cánh rừng khe sâu dốc núi
không cần lời khuyên của mấy tên già ngốc quốc huy chỉ độc cây gậy
chỉ che thân trong bóng một con sói
và nỗi kinh hoàng gây ra bởi âm thanh của cái từ Damastes
 
ta không có thần dân nghĩa là ta có trong chốc lát
chúng chẳng sống lâu hơn bình minh tuy nhiên là vu khống
nếu nói ta là cướp như bọn nguỵ tạo lịch sử khẳng định
 
trên thực tế ta là một học giả và nhà cải cách xã hội
niềm đam mê đích thực của ta là nhân đạc học(*)
 
ta phát minh một cái giường với kích thước một người hoàn hảo
ta so sánh từng lữ khách ta bắt với cái giường này
đã khó tránh—ta công nhận—kéo cẳng chặt chân
con bệnh chết nhưng có càng nhiều kẻ bị huỷ diệt
thì ta càng đoan chắc công trình nghiên cứu của ta đúng
mục đích thì cao quý tiến bộ cần có nạn nhân
 
ta ao ước huỷ bỏ khác biệt giữa người cao và người thấp
ta muốn đưa ra một dạng duy nhất cho nhân loại khác nhau một cách kinh tởm
ta chẳng bao giờ ngừng trong nỗ lực làm cho mọi người bằng nhau
 
mạng ta bị kết liễu bởi Theseus tên sát nhân của Minotaur vô tội
kẻ đã đi qua mê cung với cuộn chỉ của một người đàn bà
một kẻ giả dạng đầy mánh lới chẳng có nguyên tắc hay cái nhìn về tương lai
 
    ta có niềm hy vọng đáng tin cậy rằng người khác sẽ tiếp tục công việc của ta
    và đem công tác đã được khởi sự đầy dũng cảm đi tới hoàn tất
 
----------
(*) Trong bản tiếng Anh: “anthropometry”
 
 
 

Kẻ bị bỏ rơi

 
       1
 
Tôi không đón kịp
chuyến xe chót
 
tôi ở lại trong một thị trấn
mà không phải là thị trấn
 
không có những tờ
báo sáng hay chiều
 
không có
nhà tù
đồng hồ
nước
 
tôi hưởng
những ngày nghỉ tuyệt diệu
bên ngoài thời gian
 
tôi tản bộ dài dài
qua những đại lộ đầy nhà cháy
những đại lộ đầy kẹo
đầy kính vỡ
đầy gạo
 
tôi có thể viết một luận án
về sự chuyển biến
của đời sống trở thành ngành khảo cổ
 
       2
 
có một im lặng to lớn
 
khẩu đại bác trong vùng ngoại ô
đã mắc nghẹn lòng can đảm chính nó
 
thỉnh thoảng
tất cả những gì có thể nghe thấy
là tiếng chuông của những bức tường đang sập
 
và tiếng sấm nhẹ
của tấm kim loại đung đưa trong không khí
 
có một im lặng to lớn
trước đêm của những con thú ăn thịt
 
lâu lâu
một chiếc máy bay phi lý
xuất hiện trên bầu trời
 
nó thả truyền đơn
kêu gọi đầu hàng
 
tôi sẽ rất sẵn sàng
nhưng chẳng có ai để đến hàng
 
       3
 
tôi hiện cư ngụ
tại khách sạn sang nhất
 
người gác cổng chết
vẫn trực ở phòng mình
 
từ một đồi gạch vụn
tôi vào thẳng
tầng hai
tới căn phòng
của nàng tình nhân cũ
của ông cựu cảnh sát trưởng
 
tôi ngủ trên những tấm giấy báo
tôi đắp mình bằng một bích chương
thông báo chiến thắng cuối cùng
 
trong quầy rượu vẫn còn
thuốc cho bệnh cô đơn
 
mấy cái chai chứa thứ nước màu vàng
và một nhãn hiệu tượng trưng
 
—Johnnie
khẽ nhấc chiếc nón trụ
đi nhanh về phương Tây
 
tôi chẳng căm ghét ai
vì bị bỏ rơi
 
tôi chỉ thiếu
may mắn
và bàn tay phải
 
trên trần nhà
một bóng đèn
gợi nhớ một cái sọ chổng ngược
 
tôi chờ những người thắng trận
 
tôi uống cho những người ngã xuống
tôi uống cho những người bỏ trốn
 
tôi đánh bại
những ý nghĩ xấu
 
tôi bị bỏ rơi ngay cả
bởi linh cảm về cái chết
 
 
 

Phiên xử

 
Trong diễn văn xuất sắc của mình công tố viên
không ngừng đâm thọc tôi bằng ngón trỏ vàng vọt
tôi sợ tôi không tỏ ra tự tin
vô tình tôi đeo lên mặt nạ của sợ hãi và sa đoạ
như một con chuột mắc bẫy một kẻ đưa tin một hung thủ giết người nhà
các phóng viên đang nhảy múa điệu xung trận
từ từ tôi cháy trên một giàn hoả magnesia
 
tất cả diễn ra trong một căn phòng nhỏ ngột ngạt
sàn cọt kẹt vữa rơi xuống từ trần nhà
tôi đếm mắt gỗ trên những tấm ván lỗ trên tường những khuôn mặt
mọi khuôn mặt giống nhau gần như hệt
cảnh sát hội đồng thẩm phán nhân chứng người xem
họ thuộc về đảng của những người không có chút thương cảm
và ngay người bào chữa cho tôi đang cười thân thiện
cũng là thành viên danh dự đội hành quyết
 
ngồi hàng đầu một người đàn bà mập
ăn vận như mẹ tôi với một cử chỉ diễn tuồng bà nâng
khăn tay lên đôi mắt dơ bẩn nhưng không khóc
phải mất một lúc lâu tôi cũng chẳng biết bao lâu
máu đỏ của mặt trời lặn dâng lên áo choàng các quan toà
 
phiên xử thực thụ tiếp diễn trong những tế bào tôi
chắc chúng đã biết phán quyết hồi nãy
sau cuộc nổi loạn ngắn ngủi chúng đầu hàng và bắt đầu chết
theo nhau từng cái
tôi nhìn trong ngạc nhiên những ngón tay sáp của mình
 
tôi không nói lời cuối vậy mà
trong bao năm nay tôi mải soạn bài diễn văn cuối cùng
trước Thượng Ðế trước toà án trước thế gian trước lương tâm
trước người chết hơn là người sống
dựng dậy cho đứng lên bởi những người gác
tôi chỉ kịp chớp mắt và rồi
cả phòng vỡ oà trong tiếng cười lành mạnh
bà mẹ hờ của tôi cũng cười
búa gõ xuống và đây đúng là kết cục
 
nhưng chuyện gì xảy ra sau đó—chết bằng thòng lọng
hay có lẽ một hình phạt được đổi khoan hồng thành hầm ngục
tôi sợ có một giải pháp thứ ba tăm tối khác
bên ngoài giới hạn của thời gian các giác quan và lý lẽ
 
do đó khi tôi thức dậy tôi không mở mắt
tôi siết chặt những ngón tay không ngẩng đầu dậy
thở khẽ vì thật sự tôi không biết
bao nhiêu phút không khí nữa tôi còn lại
 
 
 

Người đưa tin

 
Người đưa tin chờ trong thời gian lâu một cách tuyệt vọng
lời công bố đang được khát khao về sự toàn thắng hay tận diệt
bị hoãn lại—bi kịch không có nổi một hồi kết
 
Trong hậu cảnh giàn đồng ca lục lọi những sấm ký và nguyền rủa mù mờ
ông vua—con cá triều đại—quẫy trong một tấm lưới bao la vô hình
người thứ hai không thể thiếu lại vắng mặt—định mệnh
 
Lời bạt có lẽ được biết bởi con đại bàng cây sồi cơn gió ngọn sóng biển
khán giả là những người nửa chết hơi thở phiên phiến như đá
Các thần linh ngủ cả Một đêm yên lặng không sấm sét
 
Sau cùng người đưa tin về đến trong mặt nạ của máu của đất lòng thương tiếc
thốt lên những tiếng rít không thể hiểu chỉ tay về phương Ðông
điều này tệ hơn cái chết vì sẽ chẳng có chút thương hại chẳng nỗi sợ hãi
và trong giây phút cuối cùng ai nấy mong mỏi được tha
 
 
 

Ông Cogito về nhu cầu chính xác

 
       1
 
Ông Cogito
đang cảnh giác một vấn đề
trong lãnh vực của ngành toán học áp dụng
 
các khó khăn ta gặp phải
với những con tính số học đơn giản
 
trẻ con may mắn
chúng cộng táo với táo
trừ hột khỏi hột
tổng số đúng
mẫu giáo của thế giới
rộn ràng với một hơi ấm an toàn
 
những hạt vật chất đã được đo
những thiên thể đã được cân
và chỉ trong vấn đề của con người
thói bất cẩn không thể thứ tha ngự trị tối cao
sự thiếu thông tin chính xác
 
bên trên cõi mênh mang của lịch sử
lượn vòng một bóng ma
bóng ma của tính mập mờ
 
bao nhiêu người Hy Lạp bị giết ở thành Troy
—chúng ta không biết
 
để nói cho đúng con số tử vong
ở cả hai bên
trong trận đánh ở Gaugamela
ở Agincourt
Leipzig
Kutno
 
rồi còn số nạn nhân
của khủng bố
của người da trắng
người da đỏ
người da nâu
—Ôi các màu các màu vô tội—
 
—chúng ta không biết
thật sự chúng ta không biết
 
ông Cogito
loại bỏ lời giải thích hợp lý
rằng chuyện này lâu rồi
gió đã hoà tan hết tro
máu đã chảy ra biển
 
những lời giải thích hợp lý
tăng cường cảnh giác
của ông Cogito
 
vì ngay những sự việc
đang xảy ra dưới mắt ta
cũng trốn thoát những con số
mất đi chiều kích con người
 
đâu đó phải có một lỗi
một thiếu sót nơi các dụng cụ của ta
hay một tội lỗi của trí nhớ
 
       2
 
vài thí dụ đơn giản
từ việc đếm nạn nhân
 
trong một thảm hoạ máy bay
dễ để thiết lập
con số chính xác người chết
quan trọng cho những người kế thừa
và những ai chìm trong đau buồn
cho những hãng bảo hiểm
 
ta lấy danh sách hành khách
và phi hành đoàn
cạnh mỗi tên
ta đặt một dấu thập
 
hơi khó hơn
trong trường hợp
những tai nạn xe lửa
 
xác bị xé thành từng mảnh
phải được ráp lại
để cho không đầu nào
còn vô chủ
 
trong đại nạn
thiên nhiên
bài toán
trở nên phức tạp
 
ta đếm người được cứu
nhưng số người không thể xác định còn lại
không sống
cũng không hẳn chết
được mô tả bằng một thuật ngữ kỳ cục
mất tích
 
họ vẫn có cơ hội
trở về với ta
từ lửa
từ nước
từ trong lòng đất
 
nếu họ trở về—tốt thôi
nếu họ không về—xui quá
 
       3
 
bây giờ ông Cogito
leo
lên bước cao
lắc lư nhất của sự mập mờ
 
    khó tới đâu để xác định tên
    của những người bị tiêu diệt
    trong cuộc đấu tranh với quyền lực bất nhân
   
    các thống kê chính thức
    giảm con số của họ
    một lần nữa không thương tiếc
    chúng triệt tiêu những người đã chết một cái chết tàn bạo
    và thân xác họ biến mất
    trong những căn hầm cực tệ
    trong những toà cảnh sát đồ sộ
 
    những nhân chứng
    bị làm mù bởi hơi độc
    bị làm điếc bởi những loạt súng chào
    bởi sợ hãi và tuyệt vọng
    có khuynh hướng phóng đại
 
    những người quan sát tình cờ
    đưa ra những con số đáng ngờ
    kèm theo nỗi ngượng ngùng
    của từ “khoảng”
 
    tuy vậy trong những vụ này
    sự chính xác là cốt yếu
    ta không được sót
    dù chỉ một người
 
    bất chấp mọi thứ chúng ta là
    người bảo vệ của anh em chúng ta
 
    không ngó ngàng gì tới những người biến mất
    là làm suy yếu hiện thực của cõi đời
 
    điều đó đẩy vào địa ngục của các vẻ ngoài 
    cái lưới độc ác của phép biện chứng
    tuyên bố không có sự khác biệt
    giữa thực thể và bóng ma
 
        vì vậy ta phải biết
        đếm chính xác
        gọi bằng tên
        dự phòng cho một cuộc hành trình
 
        trong một cái chén đất
        hạt kê hạt anh túc
        một cái lược bằng xương
        những mũi tên
        và một chiếc nhẫn cho lòng chung thuỷ
 
        bùa hộ mạng
 
 
Dịch từ bản tiếng Anh của John Carpenter và Bogdana Carpenter:
Zbigniew Herbert, Report from the Besieged City and other poems (New York: The Ecco Press, 1985).
 
----------
Những tác phẩm khác của Zbigniew Herbert đã đăng trên Tiền Vệ:
Quá già để mang súng và chiến đấu như những người khác— / họ rộng lượng giao cho tôi vai trò thấp hèn của một người chép sử biên niên / tôi ghi lại—chẳng biết cho ai—lịch sử của cuộc vây hãm... | Chẳng cần chi nghị lực lớn / sự khước từ sự bất đồng và sự phản kháng của chúng ta / chúng ta có một ít can đảm cần thiết / nhưng căn bản đó là một vấn đề thẩm mỹ... [Bản dịch của Lê Đình Nhất-Lang]
Mười bài thơ  (thơ) 
Mười bài thơ của Zbigniew Herbert (1924-1998) — nhà thơ Ba-lan được biết tới nhiều hơn cả trên thế giới. Nhà thơ Czesław Miłosz nhận định: "Nếu kinh nghiệm đặc thù của những thập niên vừa qua là chiếc chìa khoá mở cửa vào thi ca Ba-lan đương đại, thì Herbert có lẽ là người tài ba nhất để diễn tả kinh nghiệm ấy..." [Bản dịch Diễm Châu]
Bài thơ của Zbigniew Herbert (1924-1998) — một nhà thơ Ba-lan được biết tới nhiều hơn cả trên thế giới — qua bản dịch của nhà thơ Diễm Châu. Theo Jacques Burko, «bài này chính yếu gợi lại những quan hệ của một người chống đối chế độ với những người bạn thời trẻ, trong đó có một số thỏa hiệp với quyền bính và những người khác ra đi sống cảnh lưu đày.»
Hãy đi về nơi những kẻ khác đã đi về giới ranh đen tối / vì tấm lông cừu bay bổng của hư không phần thưởng chót của ngươi / hãy đứng thẳng dậy và đi giữa những kẻ quỳ gối / giữa những kẻ quay lưng và những kẻ sụp đổ trong cát bụi... | Có những người trồng / những khu vườn trong đầu mình... | Đá cuội / là một tạo vật hoàn hảo... [Bản dịch Diễm Châu]
Ở thiên đường tuần làm việc có ba mươi giờ / Lương tháng cao hơn và giá cả bao giở cũng hạ... [Bản dịch Diễm Châu]
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021