thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Kính biệt nhà thơ Tô Thuỳ Yên – “cảm ơn hoa đã vì ta nở”

 

Chân dung Tô Thuỳ Yên (photo: Thận Nhiên)

 

KÍNH BIỆT NHÀ THƠ TÔ THUỲ YÊN – “CẢM ƠN HOA ĐÃ VÌ TA NỞ”

 

Vậy là nhà thơ Tô Thuỳ Yên, một trong những nhà thơ lớn của miền Nam trước 1975, đã “thức cho xong bài thơ” để “mai sớm ra đi” – cuộc đi cũng chính là “về như chiếc lá rơi về cội” nhưng ở “giữa cánh đồng không, bên kia sông” kịp “cài hờ lên cửa tặng” nhân gian những bài thơ thuộc hàng những bài hay bậc nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam.

Nhà thơ Tô Thuỳ Yên, tác giả của “Ta về”, của “Chiều trên phá Tam Giang”, của “Trường Sa hành”, của “Hề, ta trở lại gian nhà cỏ”, và một loạt những bài thơ khác sống mãi trong lòng người đọc yêu văn chương miền Nam, vừa qua đời tối thứ Ba, 21 tháng Năm 2019, tại Houston, Texas hưởng thọ 81 tuổi.

“Thức cho xong bài thơ”

Tên khai sinh là Đinh Thành Tiên, nhà thơ Tô Thuỳ Yên sinh ngày 20 tháng Mười năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định, là cựu học sinh trường Petrus Ký và trường tư thục Les Lauriers, ông từng theo học Văn chương Pháp ở Đại học Văn khoa Sài Gòn, nhưng quyết định bỏ dở.

“Cánh đồng, con ngựa, chuyến tàu” (được xem) là bài thơ đầu tay của Tô Thuỳ Yên, sáng tác khi ông còn là một thiếu niên. Ông có thơ đăng trên báo Đời Mới từ những năm 16, 17 tuổi.

Năm 1956, Tô Thuỳ Yên là người miền Nam duy nhất tham gia vào nhóm Sáng Tạo, một nhóm văn nghệ sĩ sáng tác có cùng “ý thức văn nghệ mới”, bên cạnh các cây bút từ miền Bắc di cư vào Nam như Mai Thảo, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền...

Thơ Tô Thuỳ Yên xuất hiện nhiều trên tạp chí Sáng Tạo, cùng với Thanh Tâm Tuyền và Quách Thoại, ông được biết đến với phong trào khai sinh “Thơ tự do” và ở miền Nam vào thập niên 1960. Ngoài ra ông còn cộng tác đều đặn với nhiều tạp chí văn học khác ở miền Nam, và chủ trương nhà xuất bản văn học Kẻ Sĩ.

Cuối năm 1963 đầu năm 1964 ông nhập ngũ, phục vụ ngành chiến tranh chính trị, chức vụ sau cùng của ông là Thiếu Tá, Trưởng Phòng Văn nghệ của Cục Tâm lý chiến. Sau năm 1975, ông vào nhà tù cộng sản hai lần, một lần 10 năm và một lần 3 năm.

Sau khi ra tù, nhà thơ Tô Thuỳ Yên và gia đình sang Mỹ định cư năm 1993, ban đầu đến Saint Paul, Minnesota. Đến năm 2000 thì gia đình chuyển về Houston, Texas cho đến khi ông qua đời.

Không in thơ nhiều, đến cuối đời, nhà thơ Tô Thuỳ Yên chỉ có Thơ tuyển (tự xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ, 1995) và Thắp Tạ (An Tiêm, Houston, Hoa Kỳ, 2004) trong tủ sách người yêu thi ca.

Nhà thơ Tô Thuỳ Yên (1938-2019) trong tranh của hoạ sĩ Đinh Cường (1939-2016)

“Mai sớm ra đi”

“Ông ra đi nhẹ nhàng, như trong giấc ngủ,” đó là những gì người vợ chính thức của nhà thơ Tô Thuỳ Yên, bà Huỳnh Diệu Bích, kể lại với báo Người Việt.

Nhà thơ Du Tử Lê trong một bài viết trên blog cá nhân của mình, như một bạn thơ đã trân trọng gọi nhà thơ Tô Thuỳ Yên là “một tiếng thơ lớn của miền Nam” và khi nhớ về ông như một người đồng nghiệp ở Cục Tâm lý chiến Saigon, như là một người rất là nguyên tắc, rất kỷ luật trong công việc

Nhà báo Đinh Quang Anh Thái tri nhận nhà thơ Tô Thuỳ Yên đã “để lại một dấu ấn lớn trong sinh hoạt văn học của miền Nam” khi trả lời phỏng vấn mới đây của VOA-Việt ngữ và nhắc đến một kỷ niệm với nhà thơ Tô Thuỳ Yên liên quan đến bài thơ nức tiếng “Ta về” mà ông viết khi trở về sau 10 năm trong nhà tù cộng sản.

Ông Thái kể khi anh em từ Việt Nam phát động phong trào xây dựng nhà cho gia đình các chiến sĩ đã hy sinh trong trận chiến Hoàng Sa năm 1974, nhà thơ Nguyễn Duy ở trong nước thiết tha muốn mời được Tô Thuỳ Yên từ hải ngoại trở về, cùng làm một đêm thơ ở Saigon. Tô Thuỳ Yên không về được vì sức khỏe không cho phép, nhưng đã chép nguyên văn bài thơ “Ta về” để tặng cho chương trình Nhịp cầu Hoàng Sa, và bài thơ đó đã được anh em bán đấu giá để góp tiền xây nhà cho gia đình các chiến sĩ VNCH đã tử trận trong trận chiến Hoàng Sa 1974.

“Bây giờ ngồi nhớ lại Tô Thuỳ Yên thì nhớ lại nụ cười rất hiền của một người miền Nam, nhớ lại điếu thuốc, và nhớ lại hai câu thơ: ‘Chút rượu nồng xin rưới xuống, Giải oan cho cuộc biển dâu này’”, ông Thái kể lại.

Trước sự ra đi này của nhà thơ Tô Thuỳ Yên, nhiều văn nghệ sĩ thế hệ sau tiếc thương ông và nhớ về ông và nhớ đến bài thơ “Ta về” – sau 10 năm tù cải tạo mà tuyệt nhiên không oán hận, không nguyền rủa, chỉ có tình người.

Viết trên Facebook cá nhân của mình, nhạc sĩ Tuấn Khanh tha thiết gọi Tô Thuỳ Yên là “nhà thơ lớn, có trái tim độ lượng với cả những kẻ chỉ biết căm thù” và gọi ông là “một ngôi sao sáng của văn hoá tự do Việt Nam”.

Trả lời phỏng vấn của SBS Vietnamese, từ Saigon, nhà thơ Trần Tiến Dũng tưởng nhớ nhà thơ Tô Thuỳ Yên và nhắc mãi về “chất hành giả” trong thơ ông, “vừa cốt cách cổ xưa vừa mang hình ảnh rất hiện đại trong ngôn ngữ hình ảnh của Tô Thuỳ Yên” và cho rằng không gian thơ của Tô Thuỳ Yên khó tìm thấy ở một ai khác vì đó là “một giọng thơ nửa hào hùng nửa bi tráng nửa phẫn uất nửa yêu thương... rất nhiều thứ cảm xúc trộn lẫn”.

“Cài hờ lên cửa tặng”

Vậy là Tô Thuỳ Yên, người tặng thơ, đã ra đi.

Chỉ có người như Tô Thuỳ Yên, nhà thơ của những câu chữ đã đi đến cái tận cùng của nỗi sống và cái chết, cái tận cùng của da diết lẫn dửng dưng, mới viết nên những dòng thơ tự thân phát sinh ra một nguồn năng lượng khác, đẹp lành như thứ ánh sáng đầu ngày nhưng cùng lúc lại day dứt lạ lùng như những tia nắng cuối trong chiều.

Võ Phiến (1925-2015), trong bộ sách Văn học miền Nam nổi tiếng, đã dành nhiều mỹ từ khi nói về “triết lý” trong thơ Tô Thuỳ Yên, “nếu miễn cưỡng phải là triết gia, ông là thứ triết gia ràn rụa nước mắt, triết gia héo hắt tâm can... Cái triết này không tháp ngà tháp nghiếc gì.”

Có thể nói thơ Tô Thuỳ Yên đầy vũ trụ quan, nhưng hoàn toàn không đấng toàn năng nào có chỗ trong thơ ông. Những câu chữ trong kinh Phật thảng hoặc xuất hiện nhưng lại mang màu sắc triết lý của Tô Thuỳ Yên rất riêng.

Thơ Tô Thuỳ Yên là nơi ông gửi gắm những trăn trở của thi sĩ trước cái bí ẩn muôn đời của vũ trụ, nơi cất giữ những băn khoăn siêu hình. Triết nhưng không làm dáng, triết nhưng nghiêng về “cảm” nhiều hơn khi đứng trước cái vô định vĩ đại của không gian, thời gian và sự hữu hạn bé nhỏ của kiếp người.

Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời
(“Trường Sa hành”)

Luôn có một “cuộc đi” trong thơ Tô Thuỳ Yên, một thúc giục lên đường trong cuộc đi đã bắt đầu từ vô lượng kiếp và có lẽ không bao giờ có sự kết thúc.

Đến ngả ba, đành theo một lối
Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia.
(“Đãng tử”)

Đọc thơ Tô Thuỳ Yên tức là cùng ông vào sinh ra tử, đàm đạo với cả hai phía âm dương và cái tận cùng. Cả những lúc không dấn thân vào cuộc đi, ngồi yên hít thở thì cái triết không làm dáng trong thơ ông cũng mời mọc người đọc cùng ông nghe cái cựa quậy của đất trời, để cùng luận bàn về sự mong manh trong kiếp nhân sinh.

Gặp buổi trời mưa bay phới phới
Lá cành sáng rỡ sắc hồi xuân
Ta nhìn ngọn cỏ, lòng mê mẩn
Nghĩ tới đời ràn rụa thâm ân
...
Sống trên đời, chuyện ghê gớm quá
Vậy mà ta sống có kỳ không?
Nước mắt ta tuôn khi nghĩ tới
Những người đã chết, chết như rơm.
(“Hề, ta trở lại gian nhà cỏ”)
 
Bút tích của nhà thơ Tô Thuỳ Yên trong chuyến về thăm Saigon năm 2014

Trong một bài viết về thơ Tô Thuỳ Yên, nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc có ý rằng Tô Thuỳ Yên là một “nhà thơ trí thức”. Trí thức ở đây là chuyện ông coi việc làm thơ là công việc nghiêm túc cần làm, chứ “không cậy vào cảm hứng, vào năng khiếu” và từ đó lịch sử thi ca Việt Nam có “hiện tượng Tô Thuỳ Yên” hiếm hoi, vì thơ ông “càng về sau càng trẻ trung và càng tươi tắn”.

Tô Thuỳ Yên đã sống một cuộc đời chỉ để làm thơ “cài hờ lên cửa tặng” nhân gian, như Nguyễn Hưng Quốc gọi đó là sự “đầy tự giác” của “một người đầy ưu tư, đầy khắc khoải”, còn Võ Phiến thì mô tả đó là “một cuộc sống đầy thao thức sáng tạo”, và cho rằng “tâm hồn ông tưởng chừng có kích thước vũ trụ”, nhưng cũng đừng quên một căn tính khác trong thơ Tô Thuỳ Yên, thơ của một người lính trong thời chiến.

Quê xa không tiện đường đưa tiễn
Nghĩa tận sơ sài, đám lạnh tanh
Thêm một chút gì như hối hả
Người thân chưa khóc ráo thâm tình.
...
Nao nao mường tượng bóng mình
Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền
Xuống đò, đời đã bỏ quên...
Một sông nước lớn trào lên mắt ngời
(“Qua sông”)

Giữa không gian chiến tranh chết chóc trong cuộc chiến tàn khốc nhất, không có cay nghiệt thắng thua, chỉ có tình người, chỉ có tấm lòng rốt ráo cảm thương thân phận bé nhỏ của người lính, một sinh linh mà nhà thơ muốn khóc cùng.

Mở lòng ra với vạn vật và vô tận như vậy, nhưng ngôn ngữ trong thơ Tô Thuỳ Yên được chắt lọc rất cẩn thận. Thơ ông có những chữ không thể thay thế bằng những chữ tương tự nào khác được, vậy mà lại không có vẻ sắc nét điêu luyện hay trang trọng đến mức xa cách của miền Bắc.

Tứ thơ, cảnh thơ, tiếng thơ và tim thơ Tô Thuỳ Yên mang cốt cách rất miền Nam, đầy chất liệu bình dân từ ca dao, câu hò, điệu ru của đồng bằng Nam Bộ. Nam Bộ nhưng không xuề xoà, dễ dãi, càng không cẩu thả. Tô Thuỳ Yên như một phù thủy, nhà thơ hoá phép cho những hình ảnh từ chất liệu văn học dân gian một trường ý nghĩa mới.

...
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
...
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó,
Người thức nghe buồn tận cõi xa
...
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
(“Ta về”)

Làm sao không nhận ra những “Mình về ta chẳng cho về / Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ” rồi “Trèo lên cây bưởi hái hoa / Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân” đến “máu chảy ruột mềm” và “chớp bể mưa nguồn”. Nhưng tất cả những vạt áo, hoa bưởi, tầm xuân, máu chảy ruột mềm, chớp bể mưa nguồn đó... từ ngòi bút Tô Thuỳ Yên, có một đời sống mới, một phong cách mới mang dấu ấn Tô Thuỳ Yên.

Dù là thể loại nào, hễ Tô Thuỳ Yên chạm tới, từ thơ tự do, thơ văn xuôi, đến thơ bảy chữ trường thiên, dù ông “đổi khác ngày ngày như hình thể chất lỏng lưu thông / Cho quá khứ, hiện tại, tương lai rời rạc nhau, không cùng sắc thái” thế nào thì sự tài hoa của ông đều chảy ra triền miên thấm đẫm từng hình ảnh, từng con chữ.

Tô Thuỳ Yên những năm tuổi trẻ đã có nhiều lần “hẹn chết” và tự viết về ngày mai của mình.

Tôi xô tôi rụng xuống hư vô giá lạnh, rạch ngon một lằn sơn bi thảm lên nền trời khuya trong khoảnh khắc của họ sao băng.
Và của vĩnh cửu.
Có tan nát, hãy tan nát thật huy hoàng, một đời như một chiếc pháo bông.
(“Tự do”)

Nhưng làm sao những ám ảnh khắc khoải đó chỉ như pháo bông trong khoảnh khắc được. Thơ ông sẽ còn gây ảnh hưởng lâu dài, một thứ ảnh hưởng chứa chan một nguồn năng lượng kỳ lạ có thể làm cho người đọc cùng lúc bình yên hơn, hoài nghi hơn, và dằn vặt hơn.

Sự ra đi của Tô Thuỳ Yên là thứ mất mát không gì bù đắp được, sự mất mát không có thế hệ truyền thừa trong lịch sử thi ca và văn học Việt Nam, không chỉ của miền Nam trước 1975, dù không biết bao nhiêu người nói tiếng Việt đang 16, 26, 36, 46 tuổi hôm nay biết Tô Thuỳ Yên là ai, nói gì chuyện họ biết đến cái đẹp lạ lùng trong thơ ông.

Với những người yêu thi ca, trên cửa nhà sẽ còn mãi nhiều dòng thơ của một Tô Thuỳ Yên da diết và dửng dưng “cài hờ” lên tặng:

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.
(“Ta về”)

Vinh danh ông, Tô Thuỳ Yên, “bếp lửa nhân quần ấm tối nay”. Mong ông đang vui với hoa, như bài thơ ông viết trong ngày đã vừa cũ.

 

 

----------------

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021