thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Về thơ | Mẹ sắp bỏ đi | Cha | Trở về | Một giấc mơ về Lvov
 
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
ANNA FRAJLICH
(1942~)
 
Anna Frajlich-Zajac sinh ngày 10 tháng Ba 1942 tại làng Katta-Taldyk, trong vùng Osh [Kirghizia – thuộc Liên Xô cũ], là nơi mẹ bà trốn đến ở trong suốt thời gian Thế chiến II, và phải làm như đã ly dị chồng, sau khi Đức quốc xã tấn công vào Lvov. Chiến tranh chấm dứt, năm 1946, bố mẹ đoàn tụ, gia đình bà trở về Ba-lan và sinh sống tại Szczecin [Stettin – một thành phố cảng vùng bờ biển Baltic]. Trước khi vào đại học bà đã làm thơ đăng báo, tham gia nhóm họa sĩ và thi sĩ “Rak” [1958] và sau khi tốt nghiệp M.A. khoa Văn chương Ba-lan tại Đại học Warsaw năm 1965, bà làm việc trong tòa soạn một tờ báo dành cho người khiếm thị, cũng là năm bà lập gia đình. Năm 1969, cao điểm của chiến dịch chống Do thái của nhà cầm quyền cộng sản, bà cùng chồng và con trai chuyển đến sống ở Vienna rồi Roma trong thời gian ngắn trước khi di cư qua Hoa Kỳ, và từ 1970 bà sinh sống ở Brooklyn, New York bằng đủ thứ nghề: tham gia viết báo tiếng Ba-lan, cộng tác với Radio Free Europe, làm việc trong một phòng thí nghiệm dịch tễ, dạy ngôn ngữ và văn chương Ba-lan tại Columbia University [từ 1982]... và tham gia các hoạt động văn hóa ở New York. Anna Frajlich lấy bằng PhD về văn chương slave tại New York University năm 1991 và từ đó có quan hệ với nhiều giới văn chương Ba-lan trên khắp thế giới, thường xuyên đăng thơ trên các tạp chí văn chương và thường xuyên được mời giảng dạy và thuyết trình tại nhiều trường đại học và nhiều hội nghị quốc tế, với cả hai tư cách là nhà thơ và giáo sư.
 
Thơ Anna Frajlich khởi sự đăng trên phụ trương báo Folks Sztyme, một tờ báo tiếng Yiddish xuất bản ở Warsaw và trên tờ Glos Szczecinski, trên tạp chí Wiadomoncie xuất bản ở London (1971) và tạp chí Kultura xuất bản ở Paris. Hiện bà vẫn tiếp tục cộng tác với tạp chí tiếng Ba-lan Przeglid polski xuất bản ở New York, và nhiều tờ báo khác ở Hoa Kỳ, Anh quốc cũng như ở Ba-lan – như các tạp chí Odra, Rzeczpospolita, Akcent – và tờ Tygodnik Powszechny trải rộng khắp châu Âu. Các ấn phẩm của bà, theo thứ tự thời gian, có thể ghi nhận: Aby wiatr namalować [“Vẽ gió”, London, 1976], Tylko ziema [“Chỉ là đất”, London, 1979], Indian Summer [Albany, New York, 1982], Który las [“Rừng nào”, London, 1986], Between Dawn and the Wind [Host Publications, Texas, 1990/2006], và Drzewo za oknem [“Cái cây sau cửa sổ”, New York, 1990]... Như thế, ngoài những bài báo và bài nghiên cứu học thuật chuyên môn, Anna Frajlich là tác giả mười một tập thơ xuất hiện ở cả hai bờ Đại Tây dương, trong đó có bảy tập xuất bản ở Hoa Kỳ, Anh và Pháp – với ba tập bằng Anh và Pháp ngữ, cộng với bốn tập xuất bản ở Ba-lan sau khi chế độ cộng sản sụp đổ [sau hai mươi bốn năm gián đoạn, bà trở về Ba-lan (1993) và bốn tập thơ xuất bản thời gian này là Ogrodem I ogrodzeniem (“Khu vườn và hàng rào”, Czytelnik, Warsaw, 1983), Jeszcze w drodze: Wybór wierzy (“Vẫn trên đường: Thơ tuyển”, Warsaw, 1994), W sloncu listopada (“Nắng tháng Mười Một”, WL Kraków, 2000) và Znow szuka mnie wiatr (“Gió lại tìm tôi”, Warsaw, 2001)]. Tập thơ song ngữ Pháp/Ba-lan ấn hành ở Pháp, Le Vent, à nouveau, me cherche (bản dịch của Alice-Catherine Carls, do Jan Zielinski giới thiệu, Nhà xuất bản Editinter, 2003) là một trong những nguồn giúp hoàn thành các bản Việt ngữ được giới thiệu trên trang này.
 
Thơ của Anna Frajlich luôn toát ra một mối ưu tư dai dẳng và mang tâm tình của những con người trước hoàn cảnh lưu vong, sự chuyển đổi nơi sống, sự thích ứng với những nền văn hóa mới – nỗi đau mất mát của những người sống giữa quá khứ và hiện tại, những nỗ lực hội nhập lớn lao của người di dân đi tìm một diện mạo mới... – có khi đọc lên nghe như những lời chú giải sâu sắc và thấm thía cho những thái độ biến chuyển của tác giả đối với chuyện di dân, cũng như những khía cạnh phức tạp và mỉa mai trong cuộc sống xa quê hương. Nhiều nhà phê bình và học giả uy tín như Czeslaw Milosz, Jan Kott, Stanislaw Balinski, Maja Elzbieta Cybulska, Joanna Rostropowicz, Maya Peretz... (kể cả nhà văn lão thành Stanislaw Wygodzki ở Do Thái) thường ghi nhận những nét sắc sảo và sự hiểu biết sâu sắc thấu đáo của Anna Frajlich trong việc vạch rõ những giai đoạn chuyển biến và thích nghi của người di dân, và đều nhìn nhận bà là đỉnh cao trong số những nhà thơ lưu vong thuộc thế hệ bà. Một trong những biệt danh đáng yêu nhất bà nhận được: Đại sứ văn hóa Ba-lan trên khắp thế giới.
 
Anna Frajlich từng lãnh các Giải thưởng Koncielski Foundation ở Thuỵ-sĩ năm 1981, Giải Turzanski Foundation ở Canada năm 2003 cho toàn bộ tác phẩm. Thơ bà xây dựng từ những “mảnh vỡ” của lịch sử thế kỷ XX, là chứng từ cho nỗi đau lưu vong chung của loài người, nhưng đồng thời cũng biểu lộ một niềm tin sâu đậm nơi sự cứu rỗi của cái đẹp. Chính từ trọng tâm ấy, mà tác phẩm bà từng là đề tài của nhiều công trình nghiên cứu tại các trường đại học ở Ba-lan và ở Mỹ. Năm 2002 bà nhận Huân chương Công trạng [Croix de l'Ordre du Mérite] từ tay Tổng thống Cộng hòa Ba-lan do những đóng góp của bà cho sự nghiệp phát triển văn hóa Ba-lan ở Hoa Kỳ. Thiết tha với ngôn ngữ mẹ, bà chỉ sáng tác bằng tiếng Ba-lan, trừ những lúc làm thơ “cho đám cháu chắt trong nhà”.
 
 

Về thơ

 
Những bà mẹ tưởng tượng
đặt
những đứa con trai tưởng tượng
vào những cái nôi tưởng tượng
và hôn chúng trên những vầng trán tưởng tượng
thốt lên những lời êm ái
nói đối với các bà là chuyện dễ – Những tượng Pièta[1]
chăm chú lắng nghe tiếng đá
nguội
như tiếng dội của một dòng sông ngầm
là ngôn ngữ của sự sống và sự chết
 
 
 

Mẹ sắp bỏ đi

 
Như những bà mẹ khác
mẹ tôi cũng sẽ ra đi
chẳng đem theo mình
bất cứ gì trên đường
 
mẹ hãy còn đây
nhưng đã lội
qua những dòng nước đen
trên sông Lethe
mẹ vươn dài cánh tay về phía tôi –
nhưng tôi không làm gì được
 
Tôi mong có thể đền đáp
cho nỗi đau và cho bao đêm
mẹ canh chừng tôi
và vật lộn vì tôi
 
món nợ
như một đồng xu mòn nhẵn lỗi thời
rơi xuống một vực thẳm
sẽ không ai buồn đòi lại
 
 
 

Cha

 
Những giấc mơ
trong đó cha tôi
từng có thời lạc bước
khi đến một khúc quanh con đường
trở lại với tôi
như thể cha lại bước về phía tôi
những giấc mơ ngày càng có ý nghĩa
những giấc mơ ấy sẽ
chẳng giúp cha
cũng chẳng giúp tôi
và sẽ không có gì khác
hơn những gì đã xảy ra
có thể đã xảy ra
phải xảy ra
 
về cả hai phía
cuộc sống
ở nơi tiếp giáp hai giấc mơ
chúng tôi đứng hất tung
những hạt mầm cây mù tạc[2]
 
 
 

Trở về

 
Không phải sông chia cách chúng ta
mà chính là hàng trăm chiếc cầu bắc qua nó
nỗi đau đã nguội lạnh
– lần nữa chúng ta có thể cử động
đôi môi chúng ta
như sau một cơn bệnh kéo dài
sau mối tình ấy
chúng ta trở lại
chúng ta trở lại
 
 
 

Một giấc mơ về Lvov

 
Mẹ tôi mơ về phố Sykstuska
Ai còn nhớ số nhà 14 đường Sykstuska
sau cuộc thế chiến
trước cơn đại hồng thuỷ
ai còn nhớ
một người thợ mộc từng sống ở đấy
một ông goá vợ
nuôi sáu đứa con
ai còn nhớ
như thế nào một viên đạn lạc
đã hất tung cái mũ David ra khỏi đầu
cả mìền Arcadia[3] trong căn nhà vệ sinh nhỏ xíu
đói khát và đánh đập
không ai có riêng một giường ngủ
 
phía bên kia đại dương
phía bên kia bờ cuộc sống
mẹ tôi đang mơ về phố Sykstuska
 
 
_________________________

[1]Pièta - tiếng Ý, chỉ những tranh tượng Đức mẹ Đồng trinh bế thi hài của Chúa Giêsu trong lòng.

[2]Hình ảnh trong Kinh Tân ước, từng được nhà văn/nhà thơ Ba Lan Adam Mickiewicz [1798-1855] sử dụng trong vở kịch Dziady [Đêm tổ tiên]

[3]Cũng viết là Arkadia [tiếng Hi lạp Αρκαδία], hay Arcady, là miền đất phía nam Hi lạp, thuộc bán đảo Peloponnesus - tên lấy từ nhân vật thần thoại Arcas.

 
 
------------------
“Về thơ“, “Mẹ sắp bỏ đi”, “Cha”, “Trở về”, và “Một giấc mơ về Lvov” dịch từ bản tiếng Anh “On Poetry”, “She Is Leaving”, “Father”, “Return”, và “A Dream About Lvov”của Regina Grol trong Anna Frajlich, Between Dawn and the Wind (Host Publications, 2006).
 
 
Đã đăng:
 
Hắn không bao giờ ra khỏi thành phố / ở đấy hắn từng đau khổ / ở đấy hắn từng gieo niềm vui / những ngọn đồi mòn thức dậy buổi bình minh / và hoàng hôn xuống bên kia sông... | Cúi mình trên đường cạnh của bình minh / tôi lắng nghe hơi thở của chính mình / - nó đấy – / cái khác biệt duy nhất / giữa tôi / và những người đã đi khuất... | ... tại sao nơi đây / nơi mỗi chồi cây mọc rễ / bạn vẫn giống như hạt mầm / rớt xuống một tảng đá?... | Tôi sẽ chết ở chỗ tôi được gieo xuống / nơi số phận đã ném tôi vào / đất sẽ thấm đẫm thân xác tôi / thân xác tôi thấm đẫm đất... | Khó tin nổi cơn mưa đột ngột kia / đổ ập xuống / thành phố / trên những con đường trên những cánh tay / mỗi giọt nước / sáng rực... | Chúng tôi đã đuổi kịp / đã đuổi kịp / đã đuổi kịp / thời quá khứ... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021