thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Tôi sẽ kể bạn nghe một câu chuyện | Ðồ đạc cựu Do Thái | Từ lịch sử báo chí | Làm sao phá vui bọn ăn người | Phân chia dựa trên | Những anh Thomas
Bản dịch của Lê Đình Nhất-Lang
 
 
Jerzy Ficowski (1924-) là một nhà thơ, tiểu thuyết gia, dịch giả (từ tiếng Yiddish, Nga, và Roma), và nhà nghiên cứu truyện cổ dân gian Gypsy Ba Lan. Ông là chuyên gia nổi tiếng nhất thế giới về Bruno Schulz (1892-1942, họa sĩ và tiểu thuyết gia Ba Lan). Nhờ những nỗ lực của ông trong nhiều năm mà một số lớn phác họa, tranh, và bản thảo của Schulz được phát hiện và bảo tồn.
 
Từ năm 1948, ông đã xuất bản khoảng 20 tập thơ và đoản văn. Cuối thập niên 70, ông làm đồng chủ bút quý san Zapis, tập san văn chương ngoài vòng kiểm duyệt đầu tiên ở Ba Lan, và tham gia KOR (Ủy Ban Bảo Vệ Công Nhân).
 
Thơ của ông kết hợp thể nghiệm ngữ học với những trăn trở về chính trị và xã hội, gồm số phận của cộng đồng Do Thái ở Ba Lan trong thời kỳ Holocaust. Tập thơ A Reading of Ashes (Ðọc Lại Tro Tàn, 1979) được gọi là sự thuật lại cảm động nhất về Holocaust viết bởi một người không phải Do Thái.
 
Từ 1977 tới 1989, các tác phẩm của ông chỉ xuất hiện chui hoặc ở nước ngoài. Cho đến nay, tác phẩm của ông đã được dịch ra các tiếng Anh, Pháp, Ðức, Thụy Ðiển, Hebrew, và Yiddish.
 
____________
 

Tôi sẽ kể bạn nghe một câu chuyện

 
Tôi sẽ kể bạn nghe một chuyện xưa, một câu chuyện
trước khi nó trồi lên sạch
với sạn sỏi của con người chúng ta
được lấy ra cẩn thận
như xương loài thằn lằn bay
bên dưới sa mạc gobi
 
tôi sẽ kể bạn nghe nóng hổi
từ lò thiêu auschwitz
tôi sẽ kể bạn nghe lạnh buốt
từ tuyết kolyma
một câu chuyện về những bàn tay dơ
một câu chuyện về những bàn tay bị chặt
 
bạn sẽ không tìm thấy nó trong sách giáo khoa
nó sẽ làm hoen ố
các khoảng trống
trên bản đồ của thời gian và của các thời đại
 
tôi sẽ kể bạn nghe một câu chuyện
chuyện không được viết ra chuyện không thể tả
thỉnh thoảng tới
chứng kiến sự khai quật những giấc mơ
để làm bằng chứng tôi có sự im lặng
bị bắn xuyên thẳng qua
đó là tại sao tôi đang nói thầm
tôi sẽ kể bạn nghe một chuyện xưa, một câu chuyện
 
Nhưng đừng lặp lại
 
 
 

Ðồ đạc cựu Do Thái

 
Nàng có một tủ quần áo từ đó
mấy cái áo đầm kịp trốn mất
đàng nào chúng cũng sẽ hết hợp thời
 
một cái ghế bành từ đó
người nào đã một lần đứng lên
chỉ một lúc
dài bằng đời còn lại của anh
 
nồi xoong đầy cái đói
nhưng tiện khi
muốn ăn cho đẫy cái bụng
 
chân dung của một bé gái bị giết
trong màu sắc sống động
 
lẽ ra nàng cũng đã có một cái bàn màu đen
còn tốt
nhưng nàng không thích dáng vẻ của nó
 
sao trông buồn
 
 
 

Từ lịch sử báo chí

 
Những người chết không tên
những người bị giết cách tỉ mỉ
trên những vệ đường khu ổ chuột
được đậy lên bằng những tờ báo
tới khi họ được thồ đi
 
báo chí kể từ đó
với số phát hành tăng dần
đã siêng năng phục vụ
nhằm che đậy sự thật
đang nằm ngửa tuềnh toang
 
chừng nào nó còn bặt thở
và chẳng ngóc đầu dậy
không thì đám chữ bu đặc
đám nhặng xanh, ruồi xám từ ngữ
sẽ vo ve bốc lên khỏi các tờ giấy động đậy
để đi tìm một con mồi khác
 
 
 

Làm sao phá vui bọn ăn người

 
Trong một thời gian dài tôi từng
thắc mắc làm sao để phá vui
bọn ăn người
 
chờ tới lúc chúng
tự nấu chín
dưới nắp vàng mặt trời
nhưng nấu chỉ làm
chúng chắc lại
 
đừng để chúng
ăn bạn
kế hoạch không chứa thức ăn cho tư tưởng
và không hoàn toàn thực tế
khi chúng nắm được bạn
trên đầu lưỡi chúng
 
ăn chúng
ôi nhạt
 
rồi có lẽ
đuổi chúng đi xa người ta
ôi thô lỗ
 
thế là chúng ngồi
trong rừng sâu thoải mái
vỡ bung vì
tính người
 
 
 

Phân chia dựa trên

 
Hắn chỉ có từ ngữ
họ bẻ vặn từ ngữ
sau lưng hắn
ngọng nghịu hắn dự
một sự phân chia
công bằng như cái búa
cán cho kẻ hành quyết
cho nạn nhân cái lưỡi
Hắn muốn hỏi
dựa trên cái gì
thì cứ dựa
cái cổ trên một gốc cây
cái gốc cây đã quen với việc đó
một cái cây đã bị
chặt khỏi nó một lần
 
 
 

Những anh Thomas

 
Tôi cứ đi ngang hoài những anh Thomas
trung thành
với sự ngu đần kiên định
với hai tay trong túi quần
 
họ không muốn làm đau
mấy ngón tay lành của họ
bằng những vết thương của người khác
 
trong lòng bàn tay
họ nắm chặt cái
cảm giác ấm áp của chính mình
 
những nhịp chậm rãi
tim họ
đóng đinh
đóng đinh
vào thập giá
và hòm chúng ta
 
 
---------------
Sáu bài thơ trên đây được dịch từ bản tiếng Anh trong cuốn Spoiling Cannibals’ Fun: Polish Poetry of the Last Two Decades of Communist Rule, biên tập và dịch bởi Stanisław Barańczak và Clare Cavanagh (Illinois: Northwestern University Press, 1991).
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021