thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Eureka | Điều kỳ diệu | Điều răn | An ủi | Lối thoát | Kinh ngạc | Eros | Bi ca | Hão huyền
 
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
 
BORIS XRISTOV
(1945~)
 
 
 

Eureka

 
Cái bờ biển từng đứng chờ chúng ta đã mất kiên nhẫn –
nó túm lấy hết rễ của mình và bắt đầu đi về phía chúng ta.
Giờ thì giấc mơ đang tấn công chúng ta.
 
 
 
 
 

Điều kỳ diệu

 
Hắn đem cá cung cấp cho quần chúng.
Nhưng, khi đã no nê, quần chúng lại muốn hắn
rút mấy cái xương ra khỏi họng cho mình.
 
 
 
 
 

Điều răn XI

 
Chớ nên chối từ niềm vui được làm nô lệ
đối với kẻ
không cầu mong được tự do.
 
 
 
 
 

An ủi

 
Thật là tốt biết bao nếu bạn có thể nói:
“Trong khi những kẻ khác ăn,
thì ta đây đếm những cái vảy vàng óng của con cá.”
 
 
 
 
 

Lối thoát

 
Ta để mình bị dẫn theo cái cày
kéo bởi con ngựa điên –
để khỏi phải chạy theo những con ngựa thiêng liêng.
 
 
 
 

Kinh ngạc

 
Tôi nhìn thấy tên trộm bước đi, bình tĩnh và bảnh bao.
Nhìn gần, tôi đếm bàn tay của hắn –
hắn có đúng hai bàn tay!.
 
 
 
 

Eros

 
Nàng mở cửa bao lơn và nhảy ra ngoài.
Trong khi nàng rơi, tôi rơi theo cứu nàng –
Tôi nắm được nàng, và chúng tôi cùng rơi.
 
 
 
 

Bi ca

 
Một cây nến nhỏ trong túi tôi,
bỏ quên từ lâu,
với nỗi đau về kẻ ngọn nến đã được đốt lên để tưởng niệm.
 
 
 
 
 

Hão huyền*

 
Ai cũng hoài công mong mặt trời chiếu
với ánh lung linh tư tưởng của mình.
Nhưng đá lửa là Thượng đế, và cái dùng nhóm lửa là Con người.
 
 
 
 
_____________
* Chimera: Trong thần thoại Hi lạp, “Chimera” hay “Chimaera” là một con quái vật thở ra lửa gồm nhiều bộ phận của các con vật khác nhau: trên thân mình một con sư tử đực, với phần cuối đuôi giống đầu một con rắn, có một cái đầu dê mọc ngay giữa sóng lưng. Từ “chimera” do đó còn có nghĩa một ý nghĩ kỳ quặc bất khả thi hoặc điên rồ, khó tin được.
 
 
-----------------
“Eureka”, “Điều kỳ diệu”, “Điều răn XI”, “An ủi”, “Lối thoát”, “Kinh ngạc”, “Eros”, “Bi ca” và “Hão huyền” dịch từ bản tiếng Anh của Betty Grinberg, Roland Flint và Lyubomir Nicolov trong Boris Xristov, Words on Words [Думи върху други думи] - tập thơ song ngữ (Sofia: Petrikov Publishers, Sofia 1991). Tranh vẽ của Anri Koulev.
 
 
Anri KOULEV sinh năm 1949 tại Shumen, Bulgarie, tốt nghiệp Cao đẳng Nghệ thuật Phim ảnh Moscou [1974], làm việc tại Xưởng Phim Hoạt hình Sofia và từng đạo diễn nhiều phim tài liệu và cả phim truyện – được biết nhiều nhất là “The Father of the Egg“, dựa theo tác phẩm của Boris Xristov, chiếu ở Berlin năm 1992. Ngoài Bulgarie, ông thường xuyên bày tranh tại nhiều thành phố trên thế giới: có thể kể Annecy [1985], Oberhausen [1989], New York [1991]… đồng thời tham gia các liên hoan phim [như Liên hoan Phim hoạt hình diễn ra ở Nhật tháng 8.2010] và hợp tác vẽ tranh biếm hoạ đăng trên các báo và các ấn phẩm khác nhau. Các phim được trao giải: “Hypothesis” [Grand Prize, Oberhausen -1977 và Giải Đặc biệt – Ottawa; “Staging” [Giải Đặc biệt, Ottawa – 1979]; “Cavalcade [Grand Prize, Krakow – 1985]; “A Tale About the Road” [First Prize, Varna – 1985]. Ông là tác giả bộ phim gây tiếng vang “The Sparrows in October” [2005] tại Liên hoan Phim Quốc tế Sofia [2006] và tại Liên hoan Phim “Regards sur le cinéma bulgare“ tháng Giêng 2007, do Trung tâm Văn hóa Bulgarie ở Paris tổ chức. Anri Koulev là một trong những người gắn bó với các thay đổi trong lĩnh vực nghệ thuật điện ảnh trong những năm 90s và đầu thế kỷ này, đặc biệt là những chuyển biến trong trường phái phim hoạt hình ở Bulgarie.
 
 
-------------- 
Đã đăng:
 
9 bài thơ  (thơ) 
Và những người chết sẽ trở lại đây / như những con cá trở về nơi / chúng từng rải những cái trứng của mình... | Tiếng nói của một tu sĩ Ai-cập / từ cái lọ mực cũ trước mặt tôi: / “Này cái gã khờ dại, mọi chuyện người ta đã nói - và đã nói từ lâu.” ...| Một người nọ lấy dao tấn công người kia, / nhưng anh ta đã bị hạ / bởi chính những lời lẽ của mình... | Bị hạ đo ván, con người ấy đứng dậy / và bước đi... / Cái Đau bị bỏ lại vất vưởng trong đất bùn... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Chúng ta có thể đi đâu, có thể trốn ở đâu / trong thành phố này, trong trạm ga mùa hè này. / Chim trên trời không dám bay – / đánh một viên đá, một ngọn lửa sẽ cháy bùng... | Đời sống bắt chúng ta quay vòng dưới cái nóng thiêu đốt, / và còn nện chân chúng ta vào tảng đá nóng... / Thế nhưng khi đêm từ bầu trời rớt xuống, / tôi sẽ lấy kèn trompet và ra ngồi ở ngưỡng cửa... | ... Tháng ngày vang ầm phía trên anh như những cái thùng rỗng, / nhưng người anh yêu lại thì thầm kêu tên anh những ngày Chủ nhật. / Rồi một chấm màu đỏ cam của vú nàng ôm quanh anh – / từ hai quả cam kia, cười cợt và tròn quay... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021