|
CUỐN SỔ LỚN: [chương 26] “Tống tiền”
|
|
Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn
AGOTA KRISTOF (1935~)
Vài ý nghĩ của người dịch khi đọc cuốn tiểu thuyết LE GRAND CAHIER:
Tiểu thuyết Le Grand Cahier được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy.
Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi])
Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo.
Hoàng Ngọc-Tuấn
Sydney, 14/08/2006
____________
CUỐN SỔ LỚN kỳ trước: [chương 25] “Ăn cắp”
Tống tiền
Chúng tôi đến nhà ông cha xứ. Ông ở cạnh giáo đường, trong một ngôi nhà to lớn mà người ta gọi là nhà cha xứ. Chúng tôi kéo dây chuông. Một bà già mở cửa: — Các cậu muốn gì? — Chúng tôi muốn gặp cha xứ. — Tại sao? — Vì có người sắp chết. Bà già đưa chúng tôi vào tiền sảnh. Bà gõ lên một cánh cửa: — Ông cha xứ ơi — bà kêu lên — có người cần lễ xức dầu cuối cùng. Một giọng người đáp lại từ phía sau cánh cửa: — Tôi ra đây. Bảo họ đợi. Chúng tôi đợi vài phút. Một người đàn ông cao và gầy, với một bộ mặt nghiêm trọng, bước ra khỏi phòng. Bên ngoài bộ y phục sẫm màu, ông khoác một thứ áo choàng màu trắng đính kim tuyến. Ông hỏi chúng tôi: — Ở đâu? Ai sai các con đến đây? — Sứt Môi và mẹ của chị ấy. Ông nói: — Cha hỏi các con tên thật của họ là gì. — Chúng con không biết tên thật của họ. Người mẹ thì mù và điếc. Bà ấy sống trong cái nhà ở cuối phố. Họ đang chết vì đói và lạnh. Ông cha xứ nói: — Mặc dù cha tuyệt đối không biết gì về những người này, cha vẫn sẵn sàng làm lễ xức dầu cuối cùng cho họ. Ta hãy cùng đi. Các con dẫn đường cho cha. Chúng tôi nói: — Họ chưa cần phép rửa tội. Họ cần một ít tiền. Chúng con đã mang củi cho họ, với vài củ khoai, một ít đậu khô, nhưng chúng con không thể làm gì hơn nữa. Sứt Môi đã bảo chúng con đến đây. Cha vẫn thỉnh thoảng cho chị ấy một ít tiền. Ông cha xứ nói: — Có lẽ thế. Cha bố thí tiền cho rất nhiều người nghèo. Cha không thể nhớ hết tất cả họ. Đây này! Ông lục lọi trong hai cái túi quần phía dưới tấm áo choàng và đưa cho chúng tôi vài đồng xu. Chúng tôi cầm lấy và nói: — Thế này thì còn ít. Quá ít. Ngay cả chưa đủ để mua một ổ bánh mì. Ông nói: — Rất tiếc. Có quá nhiều người nghèo. Và những con chiên ngoan đạo thì hầu như đã ngưng cống hiến. Mọi người đều gặp khó khăn vào lúc này. Các con hãy đi đi. Cầu Chúa ban phước lành cho các con! Chúng tôi nói: — Hôm nay chúng con tạm chấp thuận món tiền này, nhưng ngày mai chúng con sẽ phải trở lại. — Sao? Muốn nói cái gì? Ngày mai? Cha sẽ không để cho các con bước vào đây. Hãy ra khỏi nơi đây lập tức. — Ngày mai, chúng con sẽ rung chuông cho đến khi nào cha để cho chúng con bước vào. Chúng con sẽ gõ vào cửa sổ, chúng con sẽ đạp vào cửa lớn và sẽ kể cho mọi người nghe cha đã làm những gì với Sứt Môi. — Cha chưa bao giờ làm cái gì với con Sứt Môi cả. Thậm chí cha không biết nó là ai. Nó đã kể cho các con những chuyện nó bịa đặt. Những câu chuyện của một đứa nhỏ bị bệnh tâm thần thì không đáng quan tâm. Sẽ chẳng có ai tin lời các con. Tất cả những điều con bé đó nói đều là láo! Chúng tôi nói: — Thật hay láo thì cũng chẳng thành vấn đề. Điểm chính là nó gây ra tai tiếng. Mà người ta lại yêu thích những chuyện tai tiếng. Ông cha xứ ngồi phệch xuống ghế và lau mặt bằng một chiếc khăn mùi-soa. — Hết sức quái đản. Chúng con có biết cái việc mà chúng con đang làm thì có nghĩa là gì không hả? — Biết, thưa cha. Tống tiền. — Ở tuổi của các con... Thật là ghê tởm. — Vâng, thật ghê tởm rằng chúng con buộc lòng phải làm việc này. Nhưng Sứt Môi và mẹ của chị ấy tuyệt đối cần tiền. Ông cha xứ đứng dậy, cởi áo choàng ra, và nói: — Đây là một sự thử thách do Chúa ban xuống cho ta. Các con cần bao nhiêu tiền? Cha cũng chẳng giàu có gì. — Mười lần nhiều hơn số tiền cha đã đưa cho chúng con. Mỗi tuần một lần. Chúng con không đòi hỏi nơi cha điều gì không thực hiện được. Ông lấy tiền trong túi ra và đưa cho chúng tôi: — Hãy đến đây vào mỗi thứ Bảy. Nhưng đừng bao giờ tưởng tượng rằng cha làm điều này vì cha chịu thua cái trò tống tiền của các con. Cha làm điều này vì lòng từ thiện. Chúng tôi nói: — Thật đúng như những gì chúng con mong đợi nơi cha, thưa cha xứ. [còn tiếp nhiều kỳ]
---------
Dịch từ nguyên tác Pháp văn, “Le chantage” [chương 26], trong Agota Kristof, La Grand Cahier (Paris: Éditions du Seuil, 1986).
Đã đăng:
CUỐN SỔ LỚN: [chương 1] “Đến nhà Bà Ngoại” (tiểu thuyết)
Chúng tôi đến từ Phố Lớn. Chúng tôi đã đi suốt đêm. Đôi mắt của Mẹ đỏ ngầu. Mẹ mang một hộp các-tông lớn, và hai anh em tôi mỗi đứa mang một va-li nhỏ đựng quần áo, cộng với cuốn từ điển to kềnh của Bố mà anh em tôi thay nhau ôm cho đỡ mỏi tay... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 2 & 3] “Nhà Bà Ngoại” & “Bà Ngoại” (tiểu thuyết)
... Bà Ngoại của chúng tôi là mẹ của Mẹ chúng tôi. Trước khi đến sống trong nhà bà, chúng tôi không hề biết Mẹ chúng tôi lại còn có một bà mẹ. Chúng tôi gọi bà là Bà Ngoại. Người ta gọi bà là Mụ Phù Thuỷ. Bà gọi chúng tôi là "đồ chó đẻ"... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 4] “Công việc” (tiểu thuyết)
Chúng tôi phải làm một số công việc nào đó cho Bà Ngoại, nếu không thì bà không cho chúng tôi ăn và bà để chúng tôi ngủ ngoài trời. Đầu tiên chúng tôi không chịu vâng lời bà. Chúng tôi ngủ ngoài vườn, chúng tôi ăn trái cây và rau đậu sống... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
... Hố xí thì ở cuối vườn. Không bao giờ có giấy. Chúng tôi chùi đít bằng những chiếc lá to nhất của những loại cây nào đó. Chúng tôi bốc ra cái mùi hỗn hợp của cứt bò, cá, cỏ, nấm, khói, sữa, phô-mai, bùn, đất sét, đất thịt, mồ hôi, nước đái, và mùi meo mốc... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
... Chúng tôi quyết định làm cho thể xác chúng tôi cứng cáp hơn để có thể chịu đựng sự đau đớn mà không khóc. Chúng tôi bắt đầu bằng cách tát tai nhau, rồi đấm nhau. Thấy mặt chúng tôi sưng vù, Bà Ngoại hỏi: — Ai đánh bọn mày đấy? — Chính chúng con đấy, Bà Ngoại. — Bọn mày đánh nhau à? Tại sao? — Chẳng tại sao cả, Bà Ngoại. Đừng lo, đó chỉ là một bài thực tập... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 8] “Ông tuỳ phái” (tiểu thuyết)
Chúng tôi nằm trên băng ghế hình góc vuông ở trong bếp. Đầu chúng tôi chạm nhau. Chúng tôi chưa ngủ, nhưng mắt chúng tôi nhắm lại. Có ai đẩy cửa vào. Chúng tôi mở mắt... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
Bà Ngoại nói với chúng tôi: — Bọn chó đẻ! — Người ta nói với chúng tôi: — Lũ con của Mụ Phù Thuỷ! Đám con của đĩ! — Những kẻ khác nói: — Đồ ngu xuẩn! Quân đầu trộm đuôi cướp! Bọn hỗn láo! Đồ lỗ đít! Lũ bẩn thỉu! Đồ heo! Bọn mạt hạng! Lũ con hoang! Đồ cứt són! Quân chết tiệt! Nòi sát nhân!... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
... Vài ngày sau, chúng tôi bắt đầu đến trường. Mỗi đứa ở một lớp khác nhau. Cả hai đứa đều ngồi hàng ghế đầu. Chúng tôi cách xa nhau bằng cả chiều dài của nhà trường. Khoảng cách ấy thật quái dị, nỗi đau đớn không thể chịu nổi. Giống như người ta cắt mất nửa thân thể của chúng tôi... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 12] “Việc học của chúng tôi” (tiểu thuyết)
... Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 13] “Bà hàng xóm và đứa con gái” (tiểu thuyết)
Nó nói: “Tên tao là Sứt Môi. Tao thích sữa.” Nó mỉm cười. Răng nó đen. “Tao thích sữa, nhưng tao thích nhất là bú cái vú con dê. Sướng lắm. Nó vừa cứng lại vừa mềm.” Chúng tôi không nói lời nào. Nó bước đến gần. “Tao cũng thích bú một thứ khác nữa.” Nó giơ tay ra, chúng tôi lùi lại... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 14] “Tập ăn xin” (tiểu thuyết)
Chúng tôi mặc vào những thứ áo quần dơ dáy và rách rưới, chúng tôi cởi giày ra, chúng tôi bôi lem luốc mặt mũi và hai bàn tay. Chúng tôi đi ra đường. Chúng tôi dừng lại, chúng tôi chờ đợi... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 15] “Sứt Môi” (tiểu thuyết)
Chúng tôi câu cá nơi dòng sông. Sứt Môi chạy qua. Nó không thấy chúng tôi. Nó nằm xuống cỏ, kéo váy lên. Nó không có quần lót. Chúng tôi thấy cặp mông đít phơi truồng của nó và nhúm lông giữa hai chân nó. Chúng tôi chưa có lông giữa hai chân. Sứt Môi có, nhưng rất ít... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 16] “Tập mù và điếc” (tiểu thuyết)
Một đứa trong chúng tôi làm thằng mù, đứa kia làm thằng điếc. Để thực hiện, trước hết, thằng mù lấy một tấm khăn choàng đen của Bà Ngoại buộc lên hai con mắt, thằng điếc thì nhét cỏ vào hai lỗ tai... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 17] “Kẻ đào ngũ” (tiểu thuyết)
Chúng tôi phát hiện một người đàn ông trong rừng. Một người đàn ông còn sống, một người đàn ông trẻ, không mặc quân phục. Ông đang nằm dưới một bụi cây. Ông nhìn chúng tôi, bất động... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 18] “Tập nhịn đói” (tiểu thuyết)
Chúng tôi thông báo cho Bà Ngoại: “Hôm nay và ngày mai chúng con sẽ không ăn. Chúng con chỉ uống nước.” Bà nhún vai: “Mặc kệ bọn mày. Nhưng bọn mày vẫn phải làm việc như thường lệ.” “Tất nhiên, Bà Ngoại.” Ngày đầu tiên, bà giết một con gà và nướng nó trong lò. Buổi trưa, bà gọi chúng tôi... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 19] “Ngôi mộ của Ông Ngoại” (tiểu thuyết)
... Khi bà đã làm xong việc, bà gom dụng cụ lại, rồi quì gối xuống trước cây thập giá bằng gỗ, nhưng ngồi trên hai gót chân. Bà chắp hai bàn tay trước bụng như đọc một lời cầu nguyện, nhưng chúng tôi chỉ nghe hầu hết là những câu nguyền rủa: — Cứt... chó đẻ... con heo... quân chết tiệt... đồ súc sinh... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 20] “Tập sống tàn ác” (tiểu thuyết)
... “Bọn mày thích giết chóc, hả?” “Không, Bà Ngoại, thật ra, chúng con không thích giết chóc. Bởi vì vậy, chúng con phải tập giết chóc cho quen.” ... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 21] “Những đứa trẻ khác” (tiểu thuyết)
... Chúng tôi chẳng được bất cứ ai che chở. Vì thế chúng tôi cũng học cách tự vệ trước những đứa lớn xác. Chúng tôi làm vũ khí: chúng tôi mài nhọn những cục đá, chúng tôi nhồi cát và sỏi vào những chiếc tất. Chúng tôi còn có một lưỡi dao cạo, tìm thấy trong cái hộc trên gác xép, gần cuốn Thánh Kinh. Chúng tôi chỉ cần rút cái dao cạo ra là những thằng to xác liền bỏ chạy... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 22] “Mùa đông” (tiểu thuyết)
Trời càng ngày càng lạnh hơn. Chúng tôi lục xới trong hai cái va-li và mặc vào người gần như tất cả gì chúng tôi tìm thấy: vài cái áo cổ chui, vài cái quần dài. Nhưng chúng tôi không thể mang thêm đôi giày thứ nhì bên ngoài đôi giày đi phố đã cũ và thủng lỗ. Nói đúng ra, chúng tôi chẳng có đôi giày nào khác nữa... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 23] “Ông bưu tá” (tiểu thuyết)
Từ đó, chúng tôi đợi ông bưu tá trước cổng vườn. Đó là một ông già đội một cái mũ lưỡi trai. Ông có một chiếc xe đạp với hai cái túi da gắn vào yên sau. Khi ông đến, chúng tôi không để ông kịp rung chuông: rất lẹ làng, chúng tôi tháo cái chuông xe đạp của ông... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 24] “Ông thợ đóng giày” (tiểu thuyết)
Ông thợ đóng giày sống và làm việc trong căn hầm của một ngôi nhà gần trạm xe lửa. Căn hầm đó rất rộng. Ở một góc là cái giường của ông, ở góc kia là bếp. Nơi làm việc của ông hướng về phía cửa sổ dưới tầng hầm... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
CUỐN SỔ LỚN: [chương 25] “Ăn cắp” (tiểu thuyết)
... Chúng tôi sẽ mang cho chị mỗi ngày một bó củi. Một ít đậu và khoai nữa. Nhưng, để có các thứ khác, thì phải có tiền. Chúng tôi đã hết tiền. Không có tiền, thì không thể vào một cửa hàng nào cả. Phải mua một thứ gì đó để có thể ăn cắp những thứ khác... [Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn] (...)
|