thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Giờ Greenwich
(Huỳnh Kim Oanh dịch)

 

Ann Beattie (1947~) Nhà văn với những nhân vật đến tuổi thành niên trong thập niên 1960 và thường gặp khó khăn trong việc thích nghi với những giá trị văn hóa của các thế hệ sau.
    Beattie lấy bằng thạc sĩ ở Đại học Connecticut năm 1970. Bà có truyện ngắn đăng trên The New Yorker và nhiều tạp chí văn học khác từ đầu thập niên 1970. Tập truyện đầu tiên, Distortions (“Những bóp méo”) và tiểu thuyết đầu tiên, Chilly Scenes of Winter (“Những cảnh ớn lạnh mùa đông”) đều xuất bản năm 1976.
    Các nhân vật của bà thường là những người thụ động, xa cách, vốn không thể thoát khỏi cuộc sống và nghề nghiệp đầy thất vọng. Bằng lối văn lạnh lùng trung tính, Beattie ghi chép lại những cuộc đời không toàn mãn và liệt kê những sở hữu và những bài hát ưa thích của họ. Tác phẩm của bà thường ít khảo sát động cơ hay phân tích quá khứ nhân vật.
    Ann Beatie đã xuất bản bảy tập truyện ngắn và bảy tiểu thuyết. Bà đã được trao nhiều giải thưởng quan trọng về văn chương. Từ năm 2001, bà nhận chức vụ Edgar Allan Poe Professor về Văn Chương Sáng Tạo tại đại học Virginia, Hoa-kỳ.
    Truyện ngắn sau đây, trong tập The Burning House (1982; “Ngôi nhà đang cháy), là một trong những tác phẩm được sử dụng trong giáo trình văn học hậu hiện đại ở Hoa-kỳ.

 

“Tôi đang nghĩ về mấy con ếch,” Tom nói với thư ký của anh qua điện thoại. “Nói với họ tôi sẽ có mặt khi tôi tìm thấy một cách tiếp cận nghiêm túc với bọn ếch.”

“Tôi không biết ông đang nói về cái gì,” cô ấy nói.

“Không thành vấn đề. Tôi là người đưa ra ý tưởng, cô là người nhận tin nhắn. May cho cô.”

“May cho ông,” thư ký của anh nói. “Tôi phải đi nhổ hai cái răng khôn chiều nay.”

“Thật khủng khiếp,” anh nói. “Tôi rất tiếc.”

“Tiếc đủ để đi với tôi không?”

“Tôi phải nghĩ về mấy con ếch,” anh nói. “Bảo với Metcalf tôi nghỉ một ngày để nghĩ về chúng, nếu ông ta có hỏi.”

“Chương trình y tế ở đây không chi tiền cho vụ chữa răng,” cô nói.

Tom làm việc tại một công ty quảng cáo trên đại lộ Madison. Tuần này anh đang cố nghĩ về một cách để tiếp thị lọai xà bông có dạng con ếch – xà bông nhập khẩu từ Pháp. Anh đang bận tâm nhiều chuyện khác. Anh gác điện thọai và quay sang người phía sau anh đang chờ sử dụng điện thọai.

“Anh nghe chuyện đó chưa?” Tom hỏi.

“Chuyện gì?” người đàn ông đó hỏi.

“Chúa ơi,” Tom nói. “Xà bông con ếch đó.”

Anh bỏ đi ra ngồi bên kia đường đối diện nhà hàng bán pizza ưa thích của anh. Anh đọc mục tử vi của mình trên tờ báo (trung lập), nhìn ra cửa sổ của quán cà phê và chờ nhà hàng mở cửa. Lúc mười một giờ bốn mươi lăm anh băng qua đường và gọi một miếng pizza Sicily, với đủ thứ. Chắc hẳn khuôn mặt anh có vẻ buồn cười khi anh nói với người đàn ông đàng sau quầy, bởi vì người đó đã bật cười và nói, “Anh chắc chứ? Đủ thứ? Thậm chí chính anh còn ngạc nhiên nữa là.”

“Tôi rời nhà đi làm hồi sáng này mà chưa hề tới được sở,” Tom nói. “Sau khi ngốn một cái pizza tôi sẽ hỏi bà vợ trước của tôi xem liệu con trai tôi có thể về ở với tôi không.”

Người đàn ông lảng mắt đi và lôi cái khay từ dưới quầy ra. Khi Tom nhận ra mình đã khiến người đàn ông mất tự nhiên, anh bèn ngồi xuống. Khi bánh pizza đã sẵn sàng, anh đến quầy nhận nó, và kêu một ly sữa to. Anh bắt gặp người đàn ông sau quầy nhìn anh lần nữa – không may, lại ngay lúc anh nốc sữa quá nhanh và nó chảy xuống cằm anh. Anh chùi cằm bằng một cái khăn ăn, nhưng ngay cả khi anh làm như thế anh vẫn bị bận tâm, nghĩ về phần còn lại trong ngày. Anh sắp tới nhà của Amanda ở Greenwich, và, như thường lệ, anh cảm thấy một cảm giác lẫn lộn giữa nhẹ nhõm (cô đã cưới một người khác, nhưng cô vẫn cho anh một chìa khóa cửa sau) và bồn chồn (Shelby, chồng cô, lịch sự với anh, nhưng rõ ràng là không muốn thường xuyên thấy mặt anh).

Khi rời khỏi nhà hàng, anh định lấy xe khỏi ga ra và lái đến đó ngay lập tức, để nói với cô rằng anh muốn có Ben, rằng dù sao đi nữa, trong cảnh bối rối của tình huống này, anh đã mất Ben, và bây giờ anh muốn lấy nó lại. Nhưng thay vì thế, anh lại thấy mình lang thang quanh New York, để trấn tĩnh mình, để anh có thể đưa ra một yêu cầu hợp lý. Sau khỏang một tiếng gì đó, anh thấy mình bỗng hứng thú với thành phố này như một du khách – trong những tòa nhà cao ngất, các hình nộm với những bộ xương chậu ưỡn tới trước, hầu như chạm vào mặt kính của tủ trưng bày; những quyển sách chất thành hình kim tự tháp trong các tiệm sách. Anh đi ngang cửa hàng bán thú cưng; khỏang trống ô kính bày hàng phía trước của nó chứa đầy báo cắt vụn và mạt cưa. Khi anh nhìn vào, một cô gái độ đôi tám thò tay qua cổng ngăn trong khu ô kính bày hàng và thả hai con chó con màu nâu, mỗi con trên một tay, xuống đám mạt cưa. Trong một giây, mắt cô gái gặp ánh mắt anh, và cô gái đẩy một con chó về phía anh với một nụ cười. Trong một giây, đôi mắt con chó cũng bắt gặp ánh mắt anh. Không nhìn lại anh, con chó lủi vào đống giấy, và cô gái quay đi trở lại với công việc. Khi anh và cô gái bắt gặp cái nhìn của nhau, vài giây trước đó, anh chợt nhớ lại, hồi đầu tuần, khi một cô gái điếm rất hấp dẫn tiến tới bên anh khi anh đi bộ ngang Sheraton Centre. Anh đã do dự khi cô ta bắt chuyện với anh, nhưng chỉ bởi đôi mắt cô quá sáng – đôi mắt tròn xoe, lông mày biến mất dưới lớp tóc vàng dày phủ xuống trán. Khi anh từ chối, cô ta chớp mắt và vẻ sáng rực đó biến mất. Anh không thể tưởng tượng làm sao một việc như thế có thể xảy ra được về mặt vật lý; ngay cả mắt một con cá cũng không mờ đục quá nhanh như vậy, khi nó chết. Nhưng đôi mắt của cô gái điếm đã mờ đi ngay giây phút anh nói không.

Bây giờ anh đi vòng để tới rạp xem phim: Singin’ in the Rain. Anh bỏ ra về sau cảnh Debbie Reynolds và Gene Kelly và Donald O’Connor khiêu vũ trên trường kỷ và khiến nó lật nhào. Vẫn mỉm cười về chuyện đó, anh vào một quán rượu. Khi quán rượu bắt đầu đông khách lên, anh nhìn đồng hồ trên tay và ngạc nhiên nhận ra người ta đang tan sở. Bây giờ đã đủ say để mong trời mưa, bởi vì mưa sẽ thú vị, anh đi bộ về căn hộ của mình và tắm, rồi đi xuống ga ra. Có một rạp chiếu phim cạnh ga ra, và anh chưa kịp nhận ra mình làm gì thì đã thấy mình đang xem phim Invasion of the Body Snatchers. Anh chóang váng với con chó có đầu người, chẳng phải bởi lý do nào rõ rệt mà chỉ vì nó gợi anh nhớ đến con chó con màu nâu mà anh đã thấy hồi sớm. Nó có vẻ là một điềm báo – một cơn ác mộng về số phận của một con chó sẽ ra sao khi chẳng còn ai muốn nuôi nó nữa.

* * *

Sáu giờ sáng: Greenwich, Connecticut. Ngôi nhà bây giờ là của Amanda, kể từ khi mẹ cô chết. Tro của bà mẹ vợ trước của Tom ở trong một cái hộp thiếc đặt trên bệ lò sưởi trong phòng ăn. Chiếc hộp được niêm bằng sáp. Bà ấy chết đã một năm, vàtrong năm đó Amanda đã chuyển khỏi căn hộ của họ ở New York, tiến hành ly dị thật nhanh, tái hôn, và chuyển vào căn nhà ở Greenwich. Cô có một cuộc sống khác, và Tom thấy rằng anh phải cẩn thận trong ngôi nhà đó. Anh tra chìa khóa mà cô đã đưa vào ổ khóa và mở cửa nhẹ nhàng như thể đang gỡ một trái bom. Con mèo của cô, Rocky, xuất hiện, và nhìn anh. Đôi khi Rocky bò quanh nhà với anh. Thế nhưng bây giờ nó nhảy lên chỗ ngồi trên cửa sổ nhẹ nhàng, êm thấm, như một chiếc lông bị thổi qua mặt cát.

Tom nhìn quanh. Cô đã sơn trắng cho các bức tường phòng khách và đỏ thẫm cho phòng tắm dưới nhà. Các xà rầm trong phòng ăn đã được phơi ra; có lần Tom đã gặp anh thợ mộc đó – một người Ý nhỏ con nhút nhát hẳn đã tự hỏi sao người ta lại muốn bóc trần ngôi nhà cho đến lòi hết khung sườn ra như thế. Trong tiền sảnh, Amanda treo mấy tấm hình chụp cánh các lòai chim.

Lúc lái xe đến nhà Amanda, Tom đã để xe tông. Nó vẫn còn chạy được, nhưng ấy là nhờ anh tìm được một que sắt trong thùng xe và dùng nó để bẩy tấm chắn bùn bằng kim lọai bị cong cho khỏi cạ vào lốp xe, để bánh xe có thể quay. Lúc xe anh lạc khỏi lòng đường (hẳn anh đã ngủ gật trong giây lát), anh chợt nghĩ rằng Amanda sẽ lấy tai nạn này làm cái cớ để không giao Ben cho anh trông nom. Khi anh đang hì hục với cây que sắt, một người đàn ông dừng xe lại, bước ra và cho anh lời khuyên với giọng say rượu. “Đừng bao giờ mua mô tô,” ông ta nói. “Chúng phóng kiểm sóat không nổi. Đi chúng – anh không có cơ may nào đâu.” Tom gật. “Anh có biết con trai của Doug không?” Ông ta hỏi. Tom chẳng nói gì. Người đàn ông lắc đầu rầu rĩ sau đó đi ra phía sau xe của ông ta và mở thùng xe. Tom quan sát ông ta khi ông ta lấy ra từ thùng xe của mình những viên pháo sáng và bắt đầu đốt chúng và đặt trên mặt đường. Người đàn ông đó bước tới với vài viên pháo sáng vẫn cầm trong tay. Ông ta có vẻ bối rối vì chuyện ông ta có quá nhiều. Rồi ông ta đốt những viên pháo phụ, từng viên một, và đặt chúng thành một hình bán nguyệt trước chiếc xe, nơi Tom đang làm việc. Tom cảm thấy mình giống một ông thánh nào đó, trong một ngôi đền thờ.

Khi bánh xe đã quay được, anh lái xe đến nhà Amanda, tự nguyền rủa mình vì đã trượt và lao chiếc xe vào thùng thư trước nhà ai đó. Khi anh bước vào nhà, anh bật cái đèn pha ở sân sau, rồi đi vào nhà bếp để pha cà phê trước khi xem lại chỗ hư hại trên.

Trong thành phố, dừng lại lần cuối trước khi lấy xe ra khỏi ga ra, anh đã ăn mấy quả trứng và bánh mì tại một cửa hàng bán suốt đêm. Bây giờ dường như răng anh vẫn còn đau vì nhai. Cà phê nóng trong miệng làm anh cảm thấy dễ chịu. Nắng sớm còn dịu, gần như nằm ngoài khu vực anh có thể chuyển chiếc ghế tới mà vẫn được coi là đang ngồi tại bàn, và gây cảm giác dễ chịu khi nó chiếu lên một bên vai của anh. Khi răng anh không đau, anh bắt đầu nhận ra là mình chẳng cảm thấy gì trong miệng; chỗ nắng chiếu vào anh, anh có thể cảm thấy lớp len của chiếc áo cổ lọ sưởi ấm anh theo cách phải có ở một cái áo len, ngay cả khi không có nắng chiếu vào nó. Cái áo len này là món quà Giáng sinh của con trai anh. Dĩ nhiên là cô đã chọn và gói nó: một cái hộp được bọc trong giấy bóng trắng, với các mẫu tự to ‘B E N’ do Ben viết bằng bút chì. Những chữ viết ngoáy trông giống như cánh chim.

Amanda và Shelby ở trên lầu. Qua khung cửa anh có thể thấy một cái đồng hồ điện tử trong phòng kế bên, nằm trên bệ lò sưởi đối xứng với cái hộp đựng tro. Lúc bảy giờ, đồng hồ báo thức sẽ vang lên và Shelby sẽ xuống nhà, mái tóc hoa râm của ông ta, trong ánh sáng buổi sớm, trông như một trong những cái đèn vỏ ốc rẻ tiền họ bán ngòai bờ biển. Ông ta sẽ bước loạng choạng, nhìn xuống để chắc mình đã cài khóa quần; ông ta sẽ uống cà phê bằng một trong những chiếc tách sứ mỏng của mẹ Amanda, mà ông ta giữ trong lòng bàn tay. Hai tay ông ta quá lớn đến độ bạn phải nhìn kỹ mới thấy ông ta đang cầm một cái tách, chứ không phải ông ta đang hớp cà phê từ lòng bàn tay theo kiểu bạn uống nước từ một dòng suối.

Có lần, khi Shelby rời bàn lúc tám giờ để lái xe vào thành phố, Amanda ngước lên nhìn từ cái bàn ba người cùng dùng điểm tâm với nhau– một thời gian khoảng bình thường, thân thiện, Tom đã nghĩ thế– và nói với Shelby, “Làm ơn đừng để em một mình với anh ta.” Shelby có vẻ khó xử và bối rối khi cô đứng lên theo ông ta vào nhà bếp. “Thế ai đã đưa anh ta chìa khóa vậy, cưng?” Shelby thì thào. Tom nhìn qua khung cửa. Bàn tay Shelby đặt trên hông cô – một phần là cử chỉ gợi tình đùa giỡn, một phần là cử chỉ sở hữu. “Đừng cố nói với anh là có cái gì đó khiến em sợ,” Shelby nói.

Ben ngủ và ngủ. Nó thường ngủ đến mười hoặc mười một giờ. Trên đó trong giường của nó, ánh nắng chan hòa trên người nó.

Tom nhìn chiếc hộp đựng tro trên bệ lò sưởi. Nếu có một cuộc sống khác, điều gì sẽ xảy ra nếu có điều gì đó hỏng bét và anh đầu thai thành con lạc đà và Ben là một đám mây và sẽ không có cách nào cho hai người họ gặp được nhau? Anh muốn Ben. Bây giờ anh muốn có Ben.

Đồng hồ báo thức reo, quá lớn nghe như hàng triệu người điên đang gõ vào thùng thiếc. Tiếng chân của Shelby trên lầu. Nắng rọi một khung ánh sáng giữa phòng. Shelby sẽ đi qua vùng ánh sáng đó như thể nó là một tấm thảm được trải ra dọc lối đi trong nhà thờ. Cách nay sáu, bảy tháng, Tom đã đến dự lễ cưới của Shelby và Amanda.

Shelby trần truồng, và giật mình khi thấy anh. Ông ta bước loạng choạng, kéo áo chòang trên vai và mặc vào, hỏi Tom anh đang làm gì ở đó và đồng thời chào buổi sáng. “Mấy cái đồng hồ chết tiệt trong nhà này hoặc là chậm hai phút hoặc nhanh năm phút,” Shelby nói. Ông ta nhảy lưng tưng quanh sàn gạch bông lạnh ngắt trong nhà bếp, bắc nước nấu, kéo chặt áo choàng sát người hơn. “Tôi nghĩ sàn nhà này sẽ ấm lên vào mùa hè,” Shelby nói, thở dài. Ông ta nghiêng người từ bên này sang bên kia, theo cách một võ sĩ khởi động, chà xát đôi tay to đùng của ông.

Amanda xuống. Cô mặc quần jean cuộn lên ở mắt cá, một chiếc áo cánh lụa đen, mang đôi xăng đan cao gót màu đen. Cô loạng choạng như Shelby. Cô có vẻ không vui khi thấy Tom. Cô nhìn, và không nói gì.

“Tôi muốn nói chuyện với em,” Tom nói. Anh có vẻ đuối lý. Một con thú trong bẫy, cố giữ đôi mắt của nó bình tĩnh.

“Tôi sắp vào thành phố,” cô nói. “Claudia có một khối u cần cắt bỏ. Tất cả rối bòng bong. Tôi phải gặp chị ấy ở đó, lúc chín giờ. Bây giờ tôi cảm thấy không thích nói chuyện. Để tối nay đi. Tối nay quay lại. Hoặc bữa nay cứ ở đây.” Cô lùa hai bàn tay vào mái tóc nâu đỏ của mình. Cô ngồi xuống một cái ghế, nhận tách cà phê Shelby mang lại.

“Nữa không?” Shelby hỏi. “Em muốn thêm gì nữa không?”

Amanda nhìn Tom qua làn khói nóng bốc lên từ tách cà phê của cô. “Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta giải quyết tình huống này quá tốt,” cô nói. “tôi không hối tiếc đã đưa cho anh chìa khóa. Shelby và tôi đã thảo luận chuyện đó, và hai chúng tôi cảm thấy anh được quyền tới lui ngôi nhà này. Nhưng tôi vẫn cho rằng anh sẽ sử dụng chìa khóa này – tôi muốn nói là… trong những tình trạng cấp thiết hơn.”

“Tối qua tôi ngủ không ngon,” Shelby nói. “Theo tôi thì sáng nay không phải lúc để khởi sự mọi chuyện.”

Amanda thở dài. Cô có vẻ bối rối với Shelby khi cô ở bên Tom. “Và nếu em có thể nói điều gì đó mà không bị chỉ trích,” cô nói với Shelby, “bởi vì, phải, anh đã bảo em đừng mua chiếc Peugeot, và bây giờ cái thứ mắc dịch ấy không chịu chạy - chừng nào anh còn ở đây, Tom, nếu anh chở Inez đi chợ được thì hay quá.”

“Hôm qua mình thấy bảy con hươu chạy qua khu rừng,” Shelby nói.

“Ồ, bỏ chuyện đó đi, Shelby,” Amanda nói.

“Anh sẽ cố giải quyết những vấn đề của em, Amanda,” Shelby nói. “Em không nghĩ là mình nên bớt miệng lưỡi độc địa đi một chút sao?”

* * *

Inez đã gắn một nhánh trúc đào lên tóc cô, và cô bước đi như thể cô cảm thấy dễ chịu lắm. Lần đầu tiên Tom thấy Inez, thì cô đang làm việc trong vườn của chị cô – thực sự là đang đứng trong vườn với đôi chân trần, với chiếc váy vải dài quét đất. Cô đang bưng một cái rổ chất đầy cây diên vĩ và cúc dại. Cô mười chín tuổi và vừa đến Mỹ. Năm đó, cô sống với chị cô và anh rể, Metcalf – Metcalf bạn anh, một tay khùng nhất trong công ty quảng cáo. Metcalf bắt đầu học chụp hình, chỉ để chụp hình Inez. Cuối cùng vợ anh ta ghen và yêu cầu Inez dọn đi. Cô gặp khó khăn trong việc tìm việc làm, và Amanda thích cô và thấy tội cho cô, và Amanda đã thuyết phục Tom cho cô về sống với họ, sau khi Amanda đẻ Ben. Inez đến, mang theo những hộp đựng hình của cô, một va li và một con chuột cưng mà nó đã chết vào đêm đầu tiên cô ở trong nhà này. Suốt ngày hôm sau, Inez khóc, và Amanda đã ôm lấy cô. Inez luôn có vẻ giống một thành viên trong gia đình này, từ ngày đầu tiên.

Cạnh bờ ao nơi Tom đang đi dạo với Inez, có một con chó màu đen, thở hổn hển, nhìn chằm chằm vào một chiếc đĩa nhựa. Chủ nó giơ chiếc đĩa nhựa lên, và con chó nhìn theo chằm chằm như thể bị thôi miên bởi một chùm ánh sáng từ trên trời. Chiếc đĩa nhựa bay, lượn vòng, và con chó đớp lấy nó khi nó rơi xuống.

“Tôi định hỏi Amanda xem liệu Ben có thể đến ở với tôi được không,” Tom nói với Inez.

“Chị ấy sẽ không bao giờ ừ đâu,” Inez nói.

“Theo cô thì Amanda sẽ nghĩ gì nếu tôi bắt cóc Ben?” Tom nói.

“Ben đang dần quen với cuộc sống hiện nay,” cô nói. “Đó là một ý tệ hại.”

“Cô có nghĩ là tôi thêm cô vào không? Tôi sẽ bắt cóc cô với nó.”

“Chị ấy không phải là một người xấu,” Inez nói. “Anh nghĩ quá nhiều về chuyện gây lo lắng cho chị ấy. Chị ấy cũng có những vấn đề riêng rồi.”

“Cô bảo vệ bà chủ ti tiện của cô từ hồi nào vậy?”

Con trai anh đã nhặt một cây gậy. Con chó, từ xa, chăm chú nhìn. Chủ nó gọi “Sam!” Con chó quay đầu lại. Nó phóng qua bãi cỏ, đầu ngẩng lên, chăm chăm nhìn cái đĩa nhựa.

“Lẽ ra tôi phải vào đại học,” Inez nói.

“Đại học?” Tom hỏi. Con chó vẫn chạy. “Cô sẽ học ngành nào?”

Inez cúi xuống sau lưng Ben, bế nó lên và siết chặt nó. Nó vùng vẫy, như thể muốn được thả xuống, nhưng khi Inez cúi xuống, nó lại bấu chặt lấy cô. Họ đi đến chỗ Tom đậu xe, và Inez thả Ben xuống đất.

“Nhớ dừng lại ở chợ,” Inez nói. “Tôi cần mua các thứ cho bữa tối.”

“Cô ta sẽ no ứ với món sushi và nước khóang Perrier. Tôi cá là họ không muốn ăn tối đâu.”

“Nhưng anh thì cần đấy,” cô nói. “Tôi phải mua thứ gì đó.”

Anh lái xe tới chợ. Khi họ chạy vào bãi đậu xe, Ben đi vào cửa hàng với Inez, thay vì đi vào cửa hàng rượu kế bên với anh. Tom mua một chai cô nhắc và đút túi tiền lẻ. Tay bán hàng nhướng mày mấy cái, giống như Groucho Marx, khi y nhét một tờ quảng cáo vào túi đựng hàng, với một bức hình mặt trước thể hiện một món đồ uống màu xanh lơ-lá cây trong một ly sâm banh.

“Inez và con có những bí mật,” Ben nói, trong khi họ chạy xe về nhà. Từ băng ghế sau nó đứng lên vòng tay ôm cổ cô.

Ben đã mệt và nó quấy người khác khi nó như vậy. Amanda không nghĩ là cần phải chăm chút Ben: cô đọc cho nó nghe R.D. Laing, không phải những chuyện thần tiên; cô cho nó ăn thức ăn Pháp, và chỉ nuông chiều nó bằng việc dọn nước sốt bên cạnh cho nó. Amanda không chịu gửi nó đến vườn trẻ. Nếu cô gửi, Tom tin, nếu nó chơi cùng những đứa trẻ cùng tuổi nó, nó có thể bỏ được một số kiểu cách quấy quá của nó.

“Ví dụ,” Inez nói, “Tôi có thể lấy chồng.”

“Ai vậy?” anh hỏi, quá ngạc nhiên đến độ tay anh lạnh ngắt trên tay lái.

“Một người sống trong thành phố. Anh không biết anh ta đâu.”

“Cô đang hẹn hò với ai đó hả?” anh hỏi.

Anh rồ ga để đưa xe lên đường chạy vào nhà, con đường trơn trợt đầy bùn do vòi tưới cỏ làm chảy ra. Anh giữ cứng tay lái, chờ cho đến lúc anh cảm thấy chiếc xe sẽ chạy lên được. Chiếc xe hơi bị trượt nhưng rồi chạy thẳng tới; họ lên được đầu đoạn dốc. Anh lái vào bãi cỏ, cạnh cửa sau, chừa con đường trống cho xe của Shelby và Amanda vào ga ra.

“Có vẻ như nếu tôi nghĩ đến chuyện cưới ai đó, tôi sẽ hẹn hò đi chơi với anh ta vậy,” Inez nói.

Inez đã ở với họ từ khi Ben mới sinh ra; cách nay năm năm, và giờ đây cô có cử chỉ cũng như cách diễn tả giống như Amanda – nụ cười nửa miệng cam chịu của Amanda làm cho anh biết rằng cô nửa bị hấp dẫn và nửa lúng túng trước chuyện anh quá ngây ngô. Khi Amanda li dị anh, anh đến Kennedy để rước cô khi cô quay về, và hai tay cô ôm đầy những quả dứa khi cô xuất hiện ở cửa máy bay. Khi anh thấy cô, anh đã cười với cô đúng nụ cười nửa miệng cam chịu đó.

* * *

Lúc tám giờ, họ không về, và Inez thấy lo. Lúc chín giờ, họ vẫn chưa về. “Hôm qua chị ấy có nói chuyện gì đó về một vở kịch,” Inez thì thầm với Tom. Ben đang chơi trò ráp hình trong phòng đàng kia. Lúc này là giờ ngủ của nó – đã quá rồi nữa kìa – và nó nó khả năng tập trung như của Einstein. Inez lại qua phòng đó, và anh lắng nghe Inez lý lẽ với Ben. Cô trầm lặng hơn Amanda; cô sẽ đạt được những gì cô muốn. Tom đọc báo mua từ chợ. Nó phát hành một lần một tuần. Có mấy bài nói về chuyện bọn hươu chạy băng qua đường, các nữ nghệ sĩ in vải sẽ có những buổi trình diễn nghệ thuật in ở thư viện. Anh nghe Ben chạy lên lầu, Inez đuổi theo.

Có tiếng mở nước. Anh nghe Ben cười át cả tiếng nước. Nó khiến anh vui vì Ben đang thích nghi tốt; khi anh lên năm, không một phụ nữ nào được phép ở trong phòng tắm với anh. Bây giờ anh gần bốn mươi, anh sẽ rất thích nếu như anh ở trong bồm tắm thay vì Ben – nếu Inez đang thoa xà bông lên lưng anh, những ngón tay cô sẽ trượt xuống da thịt anh.

Trong một thời gian dài anh nghĩ về nước, về việc đi du lịch đâu đó để anh có thể đi dạo trên bãi biển, ngắm đại dương. Mỗi năm sống ở New York khiến anh ngày càng bất an hơn. Anh thường thức dậy vào ban đêm trong căn hộ của anh, nghe tiếng máy điều hòa nhiệt độ rên rỉ và người phụ nữ trong căn hộ bên trên lê bước vì chứng mất ngủ của bà trong đôi dép bằng sa tanh. (Bà ta đã trình chúng cho anh xem, để giải thích rằng việc đi lại của bà không thể nào làm anh thức giấc được.) Vào những đêm không ngủ được, anh mở hí mắt và giả vờ, như anh thường làm khi còn là một đứa trẻ, rằng đồ đạc trong nhà là một thứ gì khác. Anh nheo mắt cho chiếc rương bằng gỗ dái ngựa cao có những ngăn kéo biến thành thân cây cọ, chớp nhanh mắt, anh khiến cho cái đèn buổi tối bập bềnh như một chiếc phao trên mặt nước và cố tưởng tượng chiếc giường của anh là một con thuyền, và rằng anh đang giương buồm, như anh và Amanda đã làm nhiều năm trước, ở Maine, nơi Perkins Cove mở rộng thành đại dương xanh thẫm, sóng vỗ bập bềnh.

Trên lầu nước đã tắt. Đêm yên lặng. Yên lặng trong một thời gian dài. Inez cười to. Rocky phóng lên cầu thang, và một tấm ván kêu cót két khi con mèo bước nhẹ trên lầu. Amanda sẽ không để cho anh bắt Ben. Anh chắc chắn điều đó. Sau vài phút anh nghe Inez cười về việc chơi trò tuyết rơi khi cô giơ cao một hộp phấn rôm và rắc xuống người Ben trong bồn tắm.

Quyết định rằng cuối cùng anh muốn có một đêm ngủ ngon, Tom cởi giày và leo lên cầu thang, không cần khuấy động sự yên tĩnh của ngôi nhà. Cửa vào phòng ngủ của Shelby và Amanda mở. Ben và Inez đang cuộn mình trên giường, và cô bắt đầu dọc cho nó nghe dưới ánh sáng mờ mờ. Cô nằm cạnh nó trên chiếc mền bông xanh nhạt thật to phủ khắp giường, cô nằm nghiêng quay lưng ra cửa, với một cánh tay phẩy chầm chậm trong không khí: “Los soldados hicieron alto a la entrada del pueblo…”

Ben thấy anh, và giả như không. Ben yêu Inez hơn bất kỳ ai trong số họ. Tom bỏ đi, để cô không thấy anh và ngưng đọc.

Anh vào phòng nơi làm việc của Shelby. Anh bật đèn. Có một nút chỉnh độ sáng, và ánh sáng xuống mức rất thấp. Anh để nó như vậy.

Anh xem xét một tấm hình chụp mỏ một con chim. Một tấm hình cạnh đó chụp một cánh chim. Anh tới sát bức hình và áp má vào khung kính. Anh thấy ưu tư. Không có vẻ gì là Amanda sẽ không trở về khi cô biết anh đang chờ gặp cô. Anh cảm thấy cái lạnh của khung kính lan xuống người anh. Không có lý do nào để nghĩ rằng Amanda đã chết. Khi Shelby lái xe, ông ta cho xe bò rề rề như một ông già.

Anh đi vào phòng tắm và vỗ nước lên mặt, lau khô mặt bằng thứ mà anh nghĩ là khăn của Amanda. Anh quay trở lại phòng làm việc và nằm sải tay trên giường, bên dưới cửa sổ mở, chờ tiếng xe. Anh nằm rất yên trên một chiếc giường xa lạ, trong một ngôi nhà mà anh từng đến thăm hai ba lần một năm khi anh và Amanda đã lấy nhau – một ngôi nhà luôn được trang hòang bằng hoa vào ngày sinh nhật của Amanda, hoặc có mùi của thông vừa mới chặt vào Giang sinh, khi có dây tóc tiên được xếp thành những cái tổ trên mặt bàn, với những quả bóng Giáng sinh bé xíu lấp lánh bên trong, giống những quả trứng màu kỳ diệu. Mẹ của Amanda đã chết. Anh và Amanda đã ly dị. Amanda đã cưới Shelby. Những sự kiện này là hư ảo. Điều có thực là quá khứ, và Amanda của nhiều năm trước – một Amanda mà hình ảnh của cô anh không thể gạt khỏi tâm trí, cảnh tượng mà anh vẫn luôn nhớ. Nó đã xảy ra vào một ngày mà anh không trông đợi khám phá ra bất cứ điều gì, anh đang sống ổn thỏa bên vợ với một sự dễ chịu mà anh không bao giờ có lại, và, theo một cách nào đó, những gì xảy ra thì quá đau đớn đến độ ngay cả việc bỏ đi của cô và việc cô đến với Shelby, sau này có so sánh thì cũng sẽ bị mờ nhạt. Amanda – trong chiếc quần lót xinh xắn của cô, trong phòng ngủ tại căn hộ ở thành phố của họ, đang đứng cạnh cửa sổ – đã bắt tréo hai tay lên che bộ ngực, và nói với Ben, “Đây nào. Có sữa đây.” Ben, trong tấm tã lót và áo thun ngắn tay, nằm trên giường và nhìn cô. Cốc sữa chờ nó trên bàn cạnh giường – nó sẽ uống cốc sữa đó một cách tin cậy như Hamlet uống cốc thuốc độc. Bàn tay nhỏ xíu của Ben trên cốc sữa, bộ ngực cô lại lộ ra, tay cô đan lấy tay nó, cốc sữa nghiêng, thằng bé nuốt. Đêm đó Tom đã chuyển đầu từ gối anh đang nằm sang gối cô, chuồi xuống cho đến khi má anh chạm đầu vú cô. Anh biết anh sẽ không bao giờ ngủ được, anh quá kinh ngạc trước cách thức hơi thờ ơ của cô khi làm một chuyện mạnh bạo như thế. “Bé cưng…” anh nói, bắt đầu, và cô đã nói, “Tôi không phải là bé cưng của anh.” Nhích khỏi anh, khỏi Ben. Ai mà đoán được điều cô muốn lại là một người đàn ông khác – một người đàn ông mà cô sẽ chuồi vào giấc ngủ trên cả một biển sa tanh xanh dịu mênh mông, một chiếc giường rộng như đại dương vậy? Lần đầu đến Greenwich và thấy chiếc giường này, với cô đang nhìn anh, anh đã đưa tay che mày và nhìn tuốt về cuối phòng, cứ như anh có thể nhìn thấy tận Trung Quốc vậy.

* * *

Ngày anh đến Greenwich lần đầu tiên sau khi li dị, Ben và Shelby không có ở nhà. Nhưng có Inez ở đó, và cô đã đi cùng anh một vòng xem ngôi nhà đã được trang trí lại mà Amanda đã khăng khăng muốn anh xem. Tom biết Inez không muốn đi xem khắp ngôi nhà với họ. Cô đã làm chuyện đó vì Amanda yêu cầu cô, và cô cũng làm chuyện này vì cô nghĩ nó có thể giúp anh đỡ lúng túng. Theo một cách khác hẳn cái cách mà anh đã yêu Amanda, nhưng vẫn là một cách rất thật, anh sẽ luôn luôn yêu Inez vì điều đó.

Bây giờ Inez đang bước vào phòng làm việc, ngập ngừng khi mắt cô dần quen với bóng tối. “Anh còn thức không?” Cô thì thầm. “Anh ổn chứ?” Cô bước chậm rãi tới giường và ngồi xuống. Mắt cô nhắm lại, và anh tin chắc rằng anh có thể ngủ mãi mãi. Tay cô đặt lên tay anh; anh mỉm cười khi anh bắt đầu trôi đi và mơ. Một con chim sải cánh với vẻ duyên dáng của chiếc quạt xòe; los soldados (những người lính) được giữ vững ở đỉnh đồi. Về Inez anh sẽ luôn luôn nhớ điều này: khi cô đến làm việc vào ngày thứ hai, sau kỳ nghỉ cuối tuần khi Amanda đã nói với anh về Shelby và nói rằng cô sẽ ly dị, Inez đã thì thào với anh trong nhà bếp, “Tôi vẫn là bạn của anh.” Inez đã đến sát bên anh để thì thầm điều đó, theo cái kiểu một tình nhân nhút nhát sẽ lặng lẽ bước tới và nói “Em yêu anh.” Cô đã nói rằng cô là bạn của anh, và anh đã nói với cô rằng anh không bao giờ nghi ngờ điều đó. Rồi họ đứng đó, im lặng và bất động, như thể những bức tường trong phòng là những ngọn núi và ngôn từ của họ có thể bay va vào đó.

 

Nguyên tác Anh ngữ: "Greenwich Time",
trong Ann Beattie, The Burning House
(New York: Random House, 1982).

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021