thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
"Dạ khúc" và những bài thơ khác
(Thủy Trúc dịch)
 

Cánh ó

 
“Cánh
cánh chim,
cánh cung trong khói, ánh sáng –
hãy vọt ra ngoài giấc ngủ,
hỡi mũi tên, lao vút trên
dòng sông, một vệt mưa bay
trong ánh lửa bên bờ.”
 
Hơi nước, trắng,
làm sẫm lại
bộ lông. Gió
làm ta gay gắt. Những cơn bão
trên đồng bằng. Xạm lại vì cỏ,
buổi chiều, những bụi rậm nước.
 
“Dưới luồng khí
bên ngoài, không mơ mộng hắn đi
chú mục, tên giết mướn
đi cùng gió.”
 
A, được cuốn đi
cao hơn cả cội cây
lúc hoàng hôn, cao trong ánh sáng,
im lặng rì rào – vẫn hoài
ánh sáng, biển, tiếng sóng, những cánh buồm
bên trên nền trời, trên bóng
những cành rong, ta lướt qua ánh sáng –
lướt đi cùng với bão,
cao hơn nữa, bão săn với ngọn roi,
bão đêm, – lưỡi dao
hạnh phúc cắn trong răng.
 
 

Tia chớp

 
Kẻ tặng ta
cho cát
hay chỉ một vỏ sò,
cho cái cây
hay con ốc sên
trên chiếc lá đong đưa,
ta đâm bổ vào những đám cào cào,
ta vút qua bên cạnh
đàn chim,
 
kẻ đó cũng cho ta
một giấc ngủ như trong lửa,
một hơi thở của tuyết,
kẻ đó chỉ một con đường trống rỗng
chìm sâu trong không khí.
 
Ta vui vẻ lướt nhanh
trên những cánh rừng, lầm lì.
Ta không nghe,
kẻ đang nói không nghe.
Cho ta một chút nước,
y bảo,
ta bỏng cháy.
 
 

Lang thang trên bãi biển

 
Vẫn hoài
trên đồng sậy
ngọn lửa giữa trưa, trên
đụn cát
vẫn hoài không
tiếng rì rào bầy thiên nga, vẫn hoài
cỏ mặn
lặng lẽ,
đôi tay trong cát.
 
Khi chòm sao bay
trên eo biển,
giá băng nơi cánh,
khi những khu rừng từ tiếng dế
cất lên
trên hoang vắng,
nói bằng những cửa miệng trống không
rơi rụng ngoài khơi –
 
Tôi nghe tiếng người tới, người từ
vùng bóng mình bước ra, trút
gánh nặng từ trên vai
những mảnh trôi giạt, từ bàn tay
thoát ra ngọn lửa.
 
Tôi sẽ hỏi người:
Tên tôi là gì?
Tôi đang ở đâu?
Tôi còn ở lại đây
bao lâu nữa?
 
 

Đồng bằng

 
Hồ.
Mặt hồ.
Chìm ngập
bờ bến. Dưới mây
là cánh hạc. Trắng, sáng
những kẻ chăn nuôi
ngàn đời. Cùng với gió
 
tôi trèo lên sườn núi.
Nơi đây tôi sẽ ở. Tôi
một người thợ săn ngày trước, nhưng cỏ
đã thu phục tôi.
 
Hãy dạy ta nói, hỡi cỏ,
dạy ta chết và lắng nghe,
thật lâu, hãy dạy ta nói, hỡi đá,
hãy dạy ta tồn tại, nước ơi,
và mi, gió, đừng hỏi han ta gì hết.
 
 

Cô thủy thần

 
Từ những chiếc bóng của nàng
cất lên
lời không nói,
từ những chiếc lá
một cánh tay cong cong.
 
Em bước lên một cây cầu.
Em mang một đóa hoa trên đôi môi.
Em ẩn nấp dưới chân những ngọn tháp.
Em ném ra xa mảnh đá đánh thia lia.
 
Lửa, tôi không có.
Chim chóc ngủ trong rơm.
Nơi mái nhà nghe sống
tiếng cánh và tiếng kêu đói khát.
 
      Hỡi hơi thở
hãy mang ta theo.
      Hỡi bóng tối,
hãy nói cùng đôi tay này.
Một tiếng nước đào tổ
trong im lặng lông chim.
Dưới nước những ngôi nhà
để cửa mở,
những khung cửa sổ, những bậc cấp
từ đá nhô ra.
 
 

Giếng nước Lituanie

 
Những con đường cát của ta, trời
trên những khóm liễu.
Hỡi cần giếng, hãy vút lên cao
Hãy cho ta uống đất.
 
Rộng lớn như thời gian, hỡi sơn ca, khúc ca của mi,
cao hơn cả cánh diều.
Khi người gieo hạt nghe tiếng mi,
kẻ gặt lúa đã quên mi.
 
Kìa, nơi cánh đồng lật ngược
những cỗ xe đang tới, tiếng kêu của gió.
Hỡi cô gái của giếng khơi*, hãy nghiêng mình trong ánh sáng.
Hãy hát tới tái nhợt môi em.
 
------------------------------------------------
* Schopferin (người thiếu nữ của giếng nước), còn có nghĩa “người sáng tạo”, “tác giả”. (người dịch)
 
 

Quê hương của họa sĩ Chagall

 
Hãy còn vương quanh nhà
mùi hương rừng khô khỏng,
mùi nham lê và rêu đất.
Và áng mây Chiều
chìm dần quanh Vitebsk, vang vang từ chính vùng
tăm tối của mình. Trong đó
lác đác một tiếng cười, khi người tổ phụ
ngấp nghé trên mái
vào ngày hôn lễ.
 
Và chúng ta lơ lửng trong mơ.
Nhưng có điều gì khiến ta yên tâm
đã xoay quanh các thiên thể nơi quê hương các tổ phụ chúng ta,
râu ria như thiên sứ, và cửa miệng run run,
với những đồng lúa mì chấp chới.
 
Cận kề những gì sắp tới là tiếng
tù-và bỏng cháy này,
khi trời ngả tối, thị trấn,
rực đỏ, bơi qua những đám
mây.
 
 

Hương mộc đương hoa

 
Kía Babel, Isaac*
đã tới.
Ông nói: trong thời bị tàn sát
khi ta còn nhỏ,
con bồ-câu của ta
đã bị chúng bứng mất đầu.
 
Nhà cửa trên con đường nhà gỗ
có hàng rào, bên trên là hương mộc.
Ngưỡng cửa chùi trắng bóng
tới mãi tận bậc thang nho nhỏ ở dưới –
Bởi thế mà, mi hiểu –
vết máu.
 
Này các người, lời các người: quên lãng –
Kìa những người trẻ tuổi đã tới
tiếng cười như bụi hương mộc.
Này các người, hương mộc rất có thể
chết
vì sự lãng quên của các người.
 
---------------------------------------------------
* Isaac Babel (1894-1941?), nhà văn Do-thái Nga, tác giả “Kỵ binh đỏ”, “Chuyện Odessa”,... bị bắt năm 1939 và bị bắn chết có lẽ vào năm 1941. (người dịch)
 
 

Phương Đông

 
Tất cả những giấc mơ của tôi
đều băng qua những miền đồng bằng, lướt mau,
trong như hơi gió thoảng, tới trước
những cánh rừng chưa ai thám hiểm, những dòng sông
cô quạnh và lạnh lẽo, nơi
từ xa xa vang dội những tiếng gọi
của những ngườI chèo thuyền để râu dài—
 
Ở nơi xa xăm đó, tất cả những khúc ca
đều không cùng, cả đến sự vật nhỏ bé nhất
cũng có điều hiểm nguy, bí ẩn—
không thể bao hàm bằng tên gọi này
hay tên khác như đất cày
hoặc bãi lầy, khe sâu; bởi số mệnh
đã quật ngã chúng, và tồn tại, mãi mãi xa rời,—
ở đó chung quanh những ngọn đồi thấp
những lối mòn đều bỏ trốn.
 
Ngôn từ thành vô dụng.
Nhưng có một thứ vuốt ve mơn trớn, những bộ điệu chào hỏi,
tia mắt ngời dưới làn mi đang tối lại
và trong ngực là nỗi muộn phiền này:
còn mạnh hơn cả những vòng ôm siết.
 
Những người lái buôn từ xa tới. Những kẻ
sống giữa chúng ta, là khách lạ.
Ngập ngừng họ đi, hỏi han,
ngu ngơ dọc những con đường, lúc nào
cũng la cà trên những chuyến phà và những cây cầu,
như thể ở đó có một điều chắc chắn—
 
Nhưng chúng tôi quen biết nhau thật dễ.
Những lời nói của chúng tôi
thảy đều từ một cơ sở mà lên.
Và trong trông đợi vĩnh viễn
cư ngụ con tim của chúng tôi.
 
 

Với tiếng em

 
Với tiếng em
mãi trong đêm tối
bụi mây nói, những ánh sáng
bay chung quanh.
Cao, một bông hoa nước
vút qua tăm tối.
Với những loài thú của nó
dòng sông thở.
 
Giữa vùng lau sậy
tôi mang căn nhà đã bện.
Con ốc sên
lặng lẽ
đi qua trên mái.
Vẽ
trong long bàn tay tôi
tôi thấy khuôn mặt em.
 
 

Bờ

 
Những gì còn sống
trong cát lún
dưới những chiếc vây cũng là những chiếc cánh
của những con cá lớn, màu xanh lục
mờ nhạt đi, những cành rong, một lớp bọt biển,
đang lan trên vành trăng,
buổi sáng, khi trăng chìm đắm,
 
cũng tựa như một lời, không nói,
nghe trong hốc miệng,
trong ớn lạnh của thái dương,
trong tóc. Chúng ta bơi vào bờ,
với đôi tay tái nhợt — tình yêu,
màu trắng.
 
Vô đi em,
trời lạnh. Lắng nghe ta
là rơm, là chăn
bên trên tiếng thở dài, là vách ván
đang lách tách. Giấc ngủ, tiếng thì thầm
nằm bên ta.
 
 

Này đây

 
Này đây
hai bàn tay chúng ta đầy ánh sáng –
những tiết đoạn của đêm, những dòng nước xao động
lại chạm tới mép bờ,
giấc ngủ của loài thú trong lau sậy,
thô sơ, lìa ánh mắt,
sau vòng ôm siết – rồi
chúng ta lại đứng tựa trên sườn dốc
bên ngoài, tựa lên bầu trời
trắng, lạnh lẽo, từ bên kia núi
tới, vẻ lộng lẫy của thác nước,
và sững lại, giá băng
như từ những vì sao xuống.
 
Trên thái dương em
tôi muốn sống cái thời gian
nhỏ bé ấy, lặng lẽ, lãng quên
để mặc
dòng máu mình lang thang qua tim em.
 
 

Bài thơ tình

 
Trăng, chiếc bọt biển thấm dầu, ngọn đèn
Trăng – hay cỏ ngoài đồng,
trăng, hãy mờ đi,
trái dưa gang hay trái bầu trang sức
màu xanh, ta muốn
tự mình rọi sáng, một mình ta,
hỡi người bạn gái, tôi muốn
lụi tàn bên trên em,
không cao hơn một lá cỏ
bên trên em – trong một tàng cây
bên trên dòng sông,
khi ban mai tới,
ẩm ướt, tôi nằm đó
và còn thở.
 
Và tôi xin em,
em người đang nằm bên tôi,
nói vớI tôi về một vầng trăng,
vầng trăng hôm qua, khi trăng tàn – em
không đáp, một làn sáng
lướt qua đám mây, vang vọng
tiếng em.
 
Hôm qua –
tôi đã lụi tàn –
hôm nay –
tôi đã nghe tiếng em –
và tôi vẫn còn thở.
 
 

Dạ khúc

 
Hỡi chim, hãy tới,
chim màu lá cây xanh,
hãy tới từ chòm sao xa xăm,
dưới mái lá của ta, hỡi chim,
chúng ta sẽ nói cùng nhau
 
về mép bờ hít thở
những dòng sông, về đất đen
nơi đồng rừng,
về chỗ trú ngụ của thần linh,
 
ở nơi con người khởi sự,
bên trên mình hắn thấy ánh sáng,
thấy nơi con mắt
kẻ khác: và bởi thế hắn học hát.
 
Hỡi chim,
chim màu lá cây xanh,
dưới mái lá
chúng ta hãy nói về chuyện đó.
 
 

Tháng Chín

 
Và giờ đây là một bóng tối,
rộng lớn,
buông trên thời khắc
hắt hiu. Em không muón bỏ đi.
Nhợt nhạt những bông hồng, rồi
bông thúy cúc
leo lên hàng rào,
xanh và đường viền
hoàng hôn.
 
Và chúng ta sẽ yêu nhau,
sáng sáng
chúng ta sẽ cất bước, chúng ta
sẽ hát những bài ca trắng của tuyết,
lớn tiếng
và ngực
đầy mùa hè,
những nụ hôn trên gáy, tiếng dế
trong tóc.
 
 

Lời

 
Cây
lớn hơn đêm tối
với hơi thở của những mặt hồ
với tiếng thì thào trên
im lặng
 
Những tảng đá
dưới chân
đường vân sáng rỡ
thật lâu trên cát bụi
mãi mãi
 
Lời
đã cạn hơi
với cửa miệng mỏi mệt
qua con đường không cùng
tới ngôi nhà của người kế cận.
 
 

Lửa và tuyết

 
Lửa,
gỗ phong,
cháy, từ làn sóng đen đen,
từ đám mây
khói dầy đặc
trào ra ngọn lửa,
điệu vũ man rợ của những ngọn lửa, sự quyến rũ
lướt trên da thịt, sự quyến rũ
ngọn lửa –
 
Trên biển
có một con đường, một con mắt to
của loài thú, đang khóc, rộng
mở, đường mi xanh lục
trên làn má của muối,
tươi mát, sự quyến rũ
tươi mát –
 
Cả hai
chàng trai trẻ,
sự quyến rũ ngọn lửa, sự quyến rũ
tươi mát, điệu vũ
trên đám mây, tươi mát
của muối hay tuyết, chàng trai trẻ
trong những giờ đầu tiên
của ngày, đẹp rã rời mỏi mệt,
mái tóc ghép
những chiếc bóng.
 
Trong hơi thở tôi,
lửa và tuyết, tôi sống.
Thế là mi đã tới trong lửa,
thế là mai này mi
sẽ tới trong tuyết.
 
 

Sappho*

 
Sappho, hỡi người bạn gái, những giấc mơ thiếu nữ này
những ca khúc của nàng: những chiếc đinh vàng nơi cánh cổng uốn vòm
của đêm nay, đêm đã từng là đêm của nàng và đêm đêm của chúng tôi
và vô tận.
 
Nàng hiến cho khách phiêu bạt lạ xa trên những bậc cấp thi ca
của nàng một khoảnh khắc, một nơi tạm trú; kìa, hãy nhìn coi, hắn
lại chệnh choạng lên đường, thoát cảnh hỗn mang
thời gian một hơi thở.
 
------------------------------------------------------
* Nữ thi sĩ Hy-lạp, sinh ở Lesbos (nay là Mytilène) vào đầu thế kỷ VI trước Tây lịch. Chín tập thơ của Sappho nay chỉ còn những mảnh, đoạn. (người dịch)
 
---------------------
Ghi chú của người dịch:
JOHANNES BOBROWSKI (1917-1965) là một nhà thơ Đức, được coi như người kế nghiệp của Klopstock, Hölderlin và Trakl với lối thơ trữ tình thật tinh khiết. Trong văn chương Đức hiện đại, ông là một nhà thơ lớn, rất gần Paul Celan.
 
Sinh ngày 9.4.1917 ở Tulsit, Đông Phổ, nơi thân phụ, Gustav, làm nhân viên hỏa xa, Bobrowski theo học trung học ở Königsberg và thường lưu trú tại nhà ông bà ở Lituanie. Năm 1934, trở thành hội viên một câu lạc bộ đọc Thánh kinh nơi sau này phát sinh một phong trào của người Thiên chúa giáo chống quốc xã. Tới năm 1937, theo gia đình trở về Berlin-Friedrichshagen.
 
Trong thời gian 1939-1945, Bobrowski làm lính trong quân đội Đức ở Ba-lan, Pháp, và Liên Sô. Bị thuyên chuyển về hồ Ilmen (1941), ông bắt đầu viết những bài thơ do cảnh trí Nga gợi hứng. Bắt đầu học lịch sử nghệ thuật ở Berlin (1941-1942), rồi lại bị đổi về hồ Ilmen.
 
Bobrowski lập gia đình với Johanna Buddrus (1943) và được 3 người con. Năm 1945, ông bị bắt, làm tù binh ở Liên Sô, lao động trong các mỏ than. Mãi đến 1949 mới dứt thời bị bắt làm tù binh, Bobrowski trở lại Đức, cư ngụ tại Đông Berlin. Một năm sau, ông trở thành người đọc và lựa bản thảo cho Lucie Groszer, trong ngành xuất bản sách cho trẻ em. Đến 1959, trở thành người đọc và lựa bản thảo cho nhà Union Verlag, Berlin.
 
Tập thơ đầu tay của Bobrowski: Sarmatische Zeit ra đời năm 1961, do nhà Deutsche Verlags-Anstalt, Stuggart ấn hành. Một năm sau đến lượt tập thơ thứ nhì, Schattenland Ströme, cũng ra đời ở Stuttgart: Giải thưởng của "Nhóm 47” ở Berlin. Bobrowski cũng là tác giả hai cuốn tiểu thuyết: Levins Mühle (1964), đoạt Giải thưởng Heinrich Mann ở (Đông) Berlin và giải thưởng quốc tế Charles Veillon ở Zurich; và Litauische Claviere (1966). Ông còn viết một số chuyện ngắn in thành tập Mäusefest (Klaus Wagenbach Verlag Berlin) và tập Boehlendorff (Deutsche Verlags-Anstalt, Stuttgart). Hai tập chuyện này được nhà Union Verlag Berlin cho in lại thành một.
 
Ngày 30.7.1965, vì bị “trúng phong”, hay sung huyết não (apoplexie / congestion cérébrale), Bobrowski phải vào nằm bệnh viện và tới ngày 2.9 cùng năm ấy thì mất, lúc đó mới 48 tuổi.
 
Tập thơ thứ ba của ông, Wetterzeichen, được nhà Union Verlag Berlin xuất bản năm 1966. Năm 1967 xuất hiện tập truyện Der Mahner của ông, do nhà Union Verlag Berlin xuất bản. Tập thơ cuối cùng của Bobrowski, Im Windgesträuch, do nhà Deutsche Verlags-Anstalt, Stuttgart ấn hành xuất hiện vào năm 1970. Tác phẩm toàn tập của Bobrowski, ấn bản Eberhard Haufe, gồm 4 cuốn, do hai nhà Union Verlag Berlin và Deutsche Verlags-Anstalt Stuttgart ấn hành, xuất hiện vào năm 1987.
 
Các bài thơ của Johannes Bobrowski ở trên được dịch theo bản Pháp văn của Ralph Dutli và Antoine Jaccottet trong Johannes Bobrowski, Ce qui vit encore, sách song ngữ (Orphée/ La Différence, Paris, 1993). Xin mời bạn đọc xem thêm bài "Hãy dạy ta nói, hỡi cỏ" của Ralph Dutli về Johannes Bobrowski đăng song song trên Tiền Vệ.

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021