|
Trần Vàng Sao: nhà thơ mê vẽ
|
|
Trần Vàng Sao là một trong những trường hợp đặc biệt của văn nghệ Việt Nam hiện đại. Với giọng điệu đầy cá tính, một số tác phẩm của anh đã tạo lắm hiệu quả đáng nhớ: Bài thơ của một người yêu nước mình (1967), Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình (1984), Buổi trưa giữa đường tôi ngồi núp mưa (1990) đem lại cho tác giả niềm vinh quang lẫn nỗi hệ luỵ. Bao năm nay, dưới mái nhà ở Vỹ Dạ, cố đô Huế, Trần Vàng Sao còn say sưa vẽ tranh bằng nhiều chất liệu.
Chân dung Trần Vàng Sao Ảnh: Phanxipăng
Tôi thỉnh thoảng về Huế, khá thú vị khi gặp Trần Vàng Sao. Nâng tách trà, chung rượu, hoặc ly bia, chúng tôi rổn rảng chuyện nọ nối chuyện kia tưởng không dứt. Đã mấy lần, Trần Vàng Sao tặng tôi tranh do anh vẽ. Bức thì đậm nhạt bút chì. Bức thì ngoằn ngoèo mực xạ. Bức lại tung tẩy bột màu. Xin ghi lại cuộc chuyện vãn giữa Trần Vàng Sao với tôi bên bờ sông Hương mới đây.
* Hình như cuộc đời Trần Vàng Sao luôn gắn kết với lắm ngộ nhận, xuất phát bởi nhiều lý do. Năm anh lọt lòng là ví dụ đơn giản. Phải rứa không hè? - Đúng. Giấy tờ ghi mình sinh ngày 12-12-1942. Nhưng thực sự thì mình chào đời năm Tân Tị 1941.
* Vỹ Dạ là sinh quán và trú quán của anh. Còn nguyên quán? - Làng Đông Xuyên, thôn Quảng An, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Để nhớ nguyên quán, vợ chồng mình dùng địa danh Đông Xuyên đặt tên cho đứa con trai.
* Anh sáng tác thơ từ bao giờ? Anh vẽ vời hồi nào? Anh cộng tác với báo chí từ thuở sinh viên ư? - Trẻ con nào mà không vẽ? Mình chẳng phải ngoại lệ. Sau ni, nhiều lúc trơ trọi một mình, càng hì hục vẽ. Do không qua đào tạo, nên lắm phen mình rất lúng túng khi xử lý chất liệu. Như thuở mới chơi bột màu, mình không biết hoà trộn với keo dính nên vẽ xong một thời gian ngắn, bức tranh bị bong lở tả tơi! Còn thơ, mình bắt đầu mần từ năm 1959, lúc học lớp đệ tam, bữa ni là lớp 10, trường Quốc Học. Với báo chí thì từ thời học sinh, kéo dài sang thời sinh viên, mình đã viết bài đăng tập san Lành Mạnh. Chẳng hạn loạt bài điểm sách, như điểm các tập thơ Hoa đăng của Vũ Hoàng Chương, Hoa cô độc của Ngô Kha, Chuyện của nàng của Dương Diên Nghị, v.v.
* Kỷ niệm của anh về thuở lên rừng rồi ra Bắc? - Tại Huế, mình với Nguyễn Thiết, Lê Minh Trường, Nguyễn Đình Nghĩa, Lê Văn Sắc, v.v., in và rải truyền đơn chống đế quốc Mỹ xâm lược. Bị lộ, cảnh sát lùng sục, rứa thì mình phải lên xanh vào tháng 6-1965. Ở trên rừng, quá nhớ Huế, nhưng mình chẳng được về Huế, ngay cả dịp Tết Mậu Thân 1968. Chẳng may mình bị thương, lại thêm loét dạ dày, phải ra Bắc điều trị năm 1970. Hồi ký Tôi bị bắt do mình viết năm 1993 đã kể lại thời gian mình bị rơi vào hoàn cảnh quá đỗi éo le tại miền Bắc từ năm 1972 đến mãi sau này.
* Dẫu sao, bây giờ anh cũng có lương hưu. - Ngày 16-8-1981, mình nghỉ công tác tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã Hương Lưu. Quyết định thôi việc của mình do ông Nguyễn Đức Hân — Phó Chủ tịch UBND thành phố Huế — ký ngày 20-5-1982. Ban đầu, mình nhận trợ cấp hằng tháng 44 đồng 9 xu. Ngày 1-7-1986, Sở Thương binh - Xã hội Bình Trị Thiên xét lại trường hợp mình, cho hưởng trợ cấp hưu trí hằng tháng 217 đồng 5 hào. Bữa ni thì mức lương hưu mình mỗi tháng 1,6 triệu đồng.
* Kể tí chút về bà xã Nguyễn Thị Hay cùng các con của anh được chăng? - Hay rất… hay. Nàng người làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang. Nhà vườn của ông bà ngoại nàng hiện chừ trở thành di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh từng sống giai đoạn 1898-1900. Cha nàng lại là trung tá chế độ cũ, từng làm quận trưởng Phú Vang. Tháng 1-1976, hai đứa cưới nhau. Lúc đó, Hay học lớp Y tế xã ở trường Trung học Y tế Bình Trị Thiên. Năm 1977, đẻ con gái đầu lòng, tên thân mật là Bồ Câu, giấy tờ thì Nguyễn Cát Hiên. Đến tháng 4-1979, Hay tốt nghiệp Trung học Y tế, tháng 6-1979 đi làm ở trạm y tế phường Vĩnh Lợi, đầu năm 1980 thì nàng nghỉ, ra Vinh (Nghệ An) buôn bán nào cà phê bột, nào phân đạm, nào bút chì, nhưng lỗ nặng, bèn về Huế bán lẻ thuốc lá và bánh kẹo, rồi buôn bán trái cây, rồi gánh thuê nước đá tại chợ Đông Ba, rồi nấu bánh canh bán nhiều nơi nhằm mưu sinh qua ngày. Năm 1982, đẻ con thứ nhì, trai, tên thân mật là Bờm, giấy tờ thì Nguyễn Đông Xuyên. Nay, Bồ Câu đã có chồng với 2 con, Bờm đã có vợ với 1 con.
* Bút danh Trần Vàng Sao xuất hiện bao giờ? Anh sáng tác Bài thơ của một người yêu nước mình trong hoàn cảnh nào? - Nhiều người tưởng mình ký bút danh Trần Vàng Sao lúc ở côi ngàn. Không phải mô. Mình chọn bút danh Trần Vàng Sao khi ở Huế, từ bài thơ Khởi hành. Tập san Nhận Thức đăng tác phẩm ni, nhưng ban biên tập lo ngại lộ bí mật nên giản lược Trần Vàng Sao thành Trần Sao. Tháng 6-1965, mình lên rừng. Cuối năm 1967, mình bị sốt, phải vô trạm xá chiến khu để điều trị. Lúc đó, Ban Tuyên huấn Thành ủy Huế thực hiện tập văn thơ Nổi lửa. Anh em tới trạm xá hỏi bài, mình viết ngay một mạch Bài thơ của một người yêu nước mình, kể toàn chuyện đời mình.[*] Cuối bài thơ, mình ghi rõ ngày sáng tác: 19-12-1967. Tập Nổi lửa được in ronéo theo phương pháp thủ công ở chiến khu, chỉ mấy chục bản. Không hiểu bằng cách chi mà Bài thơ của một người yêu nước mình của Trần Vàng Sao được phổ biến nhanh chóng và sâu rộng.
* Nhưng nói lái bút danh Trần Vàng Sao thì hiển hiện số phận anh cực kỳ nhọc nhằn gay cấn: Trào Vàng Sân! - Bài thơ của một người yêu nước mình được văn đàn cùng bạn đọc miền Nam lẫn miền Bắc khen ngợi. Sách 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2007) đã in bài này. Rứa mà năm 1976, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế ấn hành Huế từ ấy, tập thơ chọn lọc nhiều tác giả, thì nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng nhạc sĩ Trần Hoàn muốn mình đừng ký Trần Vàng Sao mà ký Nguyễn Đính. Mình cự: “Đăng hay không là quyền anh. Đổi tên tác giả là quyền tôi. Tôi không bao giờ đổi tên Trần Vàng Sao. Nếu đăng, anh không đươc quyền đổi tên tác giả.” Lúc đó, báo Văn Nghệ Giải Phóng in lại Bài thơ của một người yêu nước mình với bút danh Trần Vàng Sao. Do đó, Trần Hoàn — lúc nớ mần Trưởng ty Văn hoá tỉnh Thừa Thiên — đồng ý giữ nguyên bút danh Trần Vàng Sao ở 2 bài thơ Nổi thêm lửa căm thù và Bài thơ của một người yêu nước mình trong tập Huế từ ấy. Sau, nhờ bạn bè, mình thỉnh thoảng đăng thơ trên tạp chí Sông Hương, nhưng mấy lần mắc nạn. Tháng 7-1988, Sông Hương 32, số kỷ niệm 5 năm tạp chí ra đời, đăng bức tranh mình tự hoạ và bài thơ Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình. Tháng 4-1990, Sông Hương 42 đăng 3 bài thơ của mình là Buổi trưa giữa đường tôi ngồi núp mưa, Những điều có khi hôm nay bỏ qua không nhớ, Lúc đó thế này em ơi. Ối chao ôi! Mấy sáng tác nớ bị quan chức cùng báo in, đài phát thanh và truyền hình ở địa phương xỉ vả thậm tệ, có kẻ dám lăng nhục mình là chó!
* Vẽ tranh thì anh lại ký Nguyễn Đính. Trong nghệ thuật tạo hình, đề tài nào khiến anh cảm thấy thú vị nhất? - Tranh, có những bức mình chép, có những bức mình sáng tạo ít nhiều. 10 bức tranh chăn trâu do mình chép lại Thập mục ngưu đồ từ sách Thiền. Bồ Đề Đạt Ma và bài tới, thoạt tiên mình chép, dần dà mình bóc tách một số hoạ tiết rồi bố cục theo ý riêng. Cuối mỗi năm âm lịch, mình vẽ con vật chuẩn bị cầm tinh năm mới để treo chơi Tết. Năm trước, Mậu Tý 2008, con chuột. Năm ngoái, Kỷ Sửu 2009, con trâu. Năm ni, Canh Dần 2010, con cọp. Năm tới, Tân Mão 2011, con mèo. Bìa và một số trang ruột sách Tuyển tập truyện cười của Hoàng Thiếu Phủ (NXB Trẻ, 1995) sử dụng tranh mình vẽ lại bộ bài tới. Với bản thân mình, thích nhất vẫn là vẽ sư tổ Đạt Ma, Phanxipăng nờ.
Bồ đề Đạt Ma
Tranh: Nguyễn Đính (tức Trần Vàng Sao)
------------ PHỤ LỤC: Dưới đây là bốn bài thơ của Trần Vàng Sao, trích từ tập Bài thơ của một người yêu nước mình (Nhà xuất bản Giấy Vụn, Sài Gòn, 2009).
Bài thơ của một người yêu nước mình
Buổi sáng tôi mặc áo đi giày ra đứng ngoài đường Gió thổi những bông nứa trắng bên sông Mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé Tôi yêu đất nước này như thế Mỗi buổi mai Bầy chim sẻ ngoài sân Gió mát và trong Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng Tôi vẫn sống vẫn ăn vẫn thở như mọi người
Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu Một vết bùn khô trên mặt đá Không có ai chia tay Cũng nhớ một tiếng còi tàu. Mẹ tôi thức khuya dậy sớm Năm nay ngoài năm mươi tuổi Chồng chết đã mười mấy năm Thuở tôi mới đọc được i tờ Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần Nước sông gạo chợ Ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ Sống qua ngày nên phải nghiến răng Cũng không vui nên mẹ ít khi cười Những buổi trưa buổi tối Ngồi một mình hay khóc Vẫn thở dài mà không nói ra Thương con không cha Hẩm hiu côi cút Tôi yêu đất nước này xót xa Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng Thương tôi nên ở góa nuôi tôi Những đứa nhà giàu hằng ngày chửi bới Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc, như cho một đứa hủi Ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới Thắp ba cây hương Với mấy bông hải đường Mẹ tôi khóc thút thít Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người Con nó còn nhỏ dại Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng Tôi yêu đất nước này cay đắng Những năm dài thắp đuốc đi đêm Quen thân rồi không ai còn nhớ tên Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng Áo mồ hôi những buổi chợ về Đời cúi thấp Giành từng lon gạo mốc, Từng cọng rau hột muối Vui sao khi con bữa đói bữa no Mẹ thương con nên cách trở sông đò Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc Đêm nào mẹ cũng khóc Đêm nào mẹ cũng khấn thầm Mong con khôn lớn cất mặt với đời Tôi yêu đất nước này khôn nguôi Tôi yêu mẹ tôi áo rách Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu. Tôi bước đi Mưa mỗi lúc mỗi to, Sao hôm nay lòng thấy chật Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước Chim đậu trên cành chim không hót Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may Tôi yêu đất nước này những buổi mai Không ai cười không tiếng hát trẻ con Đất đá cỏ cây ơi Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha Ăn quán nằm cầu Hai hàng nước mắt chảy ra Mỗi đêm cầu trời khấn phật, tai qua nạn khỏi Tôi yêu đất nước này áo rách Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai Tôi yêu đất nước này như thế Như yêu cây cỏ ở trong vườn Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương Nuôi tôi thành người hôm nay Yêu một giọng hát hay Có bài mái đẩy thơm hoa dại Có sáu câu vọng cổ chứa chan Có ba ông táo thờ trong bếp Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ Trong bước chân chim sẻ Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi Hay nói chuyện huyên thuyên Chuyện trên trời dưới đất rất lạ Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá Cứ hay cười mà không biết có người buồn. Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại Ngó cây cam cây vải Thương mẹ già như chuối ba hương Em chưa buồn Vì chưa rách áo Tôi yêu đất nước này rau cháo Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu Áo đứt nút qua cầu gió bay Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan Tôi yêu đất nước này lầm than Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển Ăn rau rìu rau éo rau trai Nuôi lớn người từ ngày mở đất Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng. Tôi đi hết một ngày Gặp toàn người lạ Chưa ai biết chưa ai quen Không biết tuổi không biết tên Cùng sống chung trên đất Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam Cùng có chung tên gọi Việt Nam Mang vết thương chảy máu ngoài tim Cùng nhức nhối với người chết oan ức Đấm ngực giận hờn tức tối Cùng anh em cất cao tiếng nói Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do Bữa ăn nào cũng phải được no Mùa lạnh phải có áo ấm Được nói cười hát ca yêu đương không ai cấm Được thờ cúng những người mình tôn kính Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định. Tôi trở về căn nhà nhỏ Đèn thắp ngọn lù mù Gió thổi trong lá cây xào xạc Vườn đêm thơm mát Bát canh rau dền có ớt chìa vôi Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc Mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái tử Đất nước hôm nay đã thấm hồn người Ve sắp kêu mùa hạ Nên không còn mấy thu Đất nước này còn chua xót Nên trông ngày thống nhất Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc Lòng vui hôm nay không thấy chật Tôi yêu đất nước này chân thật Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi Và yêu tôi đã biết làm người Cứ trông đất nước mình thống nhất.
(19-12-1967)
Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình
1.
tôi tuổi tỵ năm nay bốn mươi ba tuổi thường không có một đồng trong túi buổi sáng buổi chiều thứ hai thứ ba thứ bảy chủ nhật trong nhà ngoài sân với hai đứa con cây cà cây ớt con chó con mèo cái đầu gãy cái tay gãy của con búp bê cọng cỏ ngọn lá vú sữa khô thúng mủng chai chén sách vở quần áo mũ nón cuốc rựa trên ghế dưới bàn hai ba ngày một tuần một tháng có khi không đi đâu hết một hai ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa miếng nước trà mốc nguội có mùi bông lài rát cổ cũng không có chi phiền vấn một điếu thuốc hút hai ba lần tắt đỏ rồi nửa chừng rách giấy bạn bè gặp nhau cho uống một ly cà phê một lần qua hai lần phải tránh không phải ai cũng nghĩ như mình nhiều đứa vui gặp nhau cho năm ba đồng một chục đưa tay cầm lấy miệng nói không được
2.
tôi thấy tôi như người tù được thả rông lang thang giữa đường giữa phố nhìn hết mọi người xem mình lâu ngày mặt mũi có khác người không tôi đi lui tôi đi tới phố phường đông chật tiếng cười tiếng la tiếng nói tiếng xe cộ chẳng có ai quen thử nói chào tôi một tiếng tôi đưa hai tay lên đầu vuốt tóc lấy chân hất một hòn đá cúi xuống nhìn mấy bao thuốc không bên lề đường rồi đi về qua cầu dép sút một quai tôi không muốn nhớ gì hết
3.
tôi ngồi trên hòn đá trước nhà buổi chiều không có một con chim đậu trên cây đám trẻ con chia phe bắn nhau cười la ngoài sân đứa sống đứa chết cãi nhau ăn gian chửi thề những người đi bán về nói chuyện to hai đứa nhỏ nhà bên cạnh cầm đèn che miếng lá chuối qua xin lửa hỏi tôi nấu cơm chưa tôi cười lắc đầu muốn đi ngủ trong gió có mùi rơm cháy tôi không biết làm gì hết tôi bỏ hai chân ra khỏi dép cho mát đám trẻ con bỏ chơi chạy theo phá đàn trâu bò đi qua tôi bước vào nhà mở rộng hai cánh cửa lớn thắp một cây đèn để lên bàn thờ hai đứa con ra ngoài đường chờ mẹ chưa về trời còn lâu mới tối tôi đi gánh một đôi nước uống
4.
tôi sống yên ổn với những việc làm hàng ngày của mình không định được ngày mai có một đồng để mua cho con nửa cái bánh tráng hay hai cái kẹo gừng có hai đồng cất dưới chân đèn trên bàn thờ lỡ khi hết dầu thắp tới bữa thiếu ruốc hết bột ngọt mả cha cuộc đời quá vô hậu cơm không có mà ăn ngó lui ngó tới không biết thù ai những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất
5.
lâu ngày tôi thấy quen đi như quen thân thể của mình tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi buổi chiều không có cơm ăn những con ruồi ăn nước mũi khô trên má những đứa đau quan sát những con chuột chết lòi ruột ở bến xe đò những tiếng cha mẹ vợ chồng anh em con cái chửi bới la hét trong bữa ăn người điên ở trần đứng làm thinh giữa trời mưa ngoài chợ những ngày hết gạo hết tiền hết củi muối sống không còn một hột của tôi những trách canh rau khoai tháng năm không có bột ngọt hai mắt tôi mở to đầu tôi cúi thấp miệng tôi há ra những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm dồn cứng chật cuống họng
nói thật lúc này tôi muốn được say rượu họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng
6.
nhiều khi tôi quá chán chân tay rã rời đầu óc đau nhức không muốn làm gì hết mấy đứa nhỏ chơi buôn bán bỏ đi đâu không biết để đất đá lá cây đầy nhà tôi dựa cửa ngồi yên một chỗ dụi mắt nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác nói chi tới những đứa đã chết trên rừng giữa phố bạn bè có đứa giàu đứa nghèo đứa ngụy đứa cách mạng đứa của tiền ăn tiêu mấy không hết đứa không có được một cái áo lành đứa đi kinh tế mới ba bốn bảy tám năm trở về xách một cái bị lát mặt cắt không có một hột máu đứa đạp xe thồ ngồi vắt chân ăn củ sắn chờ khách ở bến xe đứa vô tích sự ở nhà không có việc chi làm có đứa râu tóc dài che kín mặt có đứa tàng không nhớ mình tên chi có đứa chịu không nổi dắt vợ con vào nam ăn chợ ngủ đường mỗi lần gặp nhau mở to mắt cười hút một điếu thuốc hết chuyện nói
hai đứa con đi chơi về cười nói đứa nhỏ bắt tôi đánh trống cho nó làm ông địa múa thiên cẩu
7.
cái trống lon mặt ni lông và hai chiếc đũa tre tôi đánh múa đi các con này đây cái nón gãy vành làm đầu thiên cẩu và sợi dây chuối treo ngọn lá làm tiền múa đi các con cái bụng ông địa to tròn giơ lỗ rún gài nút áo không được ông địa chống tay vỗ bụng ngửa mặt lên trời cười ha ha tôi vỗ tay hoan hô và không biết mình có nhớ ra được cái mặt ông địa không
(tháng 9 năm 1984)
Những điều có khi hôm nay bỏ qua không nhớ
những điều hôm nay có khi bỏ qua không nhớ như ăn miếng cơm có hột sạn nhả ra trên bàn tay nhìn một lúc hắt xuống đất rồi và miếng khác như mặc trái cái quần cột dây lưng sáng sớm đi ra vườn con sâu rớt trên áo nắng buổi trưa một nửa trên tàu lá chuối cái đuôi con thằn lằn rớt giữa nhà đầu hôm chó sủa lảng ngoài cửa ngõ những mảnh chai mảnh chén trên vạt đất mới cuốc lật con mèo ngồi trên cái ghế đẩu dưới tấm cửa chống tiếng chuột đuổi nhau nửa đêm trên mái nhà có ai ở nhà bên cạnh kêu tên cây cỏ lùng mọc dưới nước chết khô những cọng rơm rớt vãi giữa đường hai con trâu nằm nhai cỏ đầu ngã ba sợi dây dắt mũi chảy nước con nhện sa trước mặt tiếng trẻ con ru em buổi trưa trời nắng những điều đó bỏ đi có khi tình cờ thấy lại không kể năm không kể tháng không kể ngày những bãi phân trâu trời mưa nước đọng vũng ở giữa chiếc chiều rách phơi ngoài hàng rào cái lưng ướt mồ hôi của đứa con gái đi qua trước mặt tôi đứng yên một lúc những miếng vá làm cho hai ống quần của tôi dày thêm và cứng lại có chín mười giờ rồi đèn hêt dầu tôi lấy chai ra đường kêu cửa mua chịu người bán hàng dim mắt ngó tôi đứng ngoài tối mấy đứa bán bánh về gặp tôi giữa đường hỏi tôi đi chơi trời mưa chưa to đường đi có tiếng người
không biết ở nhà người khác về tôi có bỏ quên gì không tôi cứ nhìn phía trước gặp người quen chào đi khỏi một lúc lâu mới nhớ tôi bỏ hai bàn tay vào túi quần xóc xóc đồng bạc kên không biết mua cái gì cho con con chuồn chuồn hết đạp nước rồi đậu trên dây thép gai con bò kéo xe chở gạch bước lách cách người đánh xe đội trụp cái mũ levis ngồi dựa ngửa hút thuốc buổi chiều nước sông không có mặt trời tôi xoa hai đồng bạc kên trên mấy đầu ngón tay
năm năm mười năm hai ba mươi năm những nồi canh chuối cau trộn bột sắn khô đang nóng húp vội vàng chảy mồ hôi nước mắt ăn rồi ra đứng dựa cửa nhìn người đi qua đi lại bạn bè gặp nhau cứ nói chuyện trên trời miếng vá nơi quần lâu ngày chỉ đứt không biết tôi tưởng tôi dại và quá tội những điều bỏ qua khi không nhớ lại con kiến cắn ở sau lưng tay không với tới được cuộc đời kể cũng vui
(ngày 20 tháng 3 năm 1985)
Buổi trưa giữa đường tôi ngồi núp mưa
rồi tôi chỉ còn lại có một mình em như thằng điên tự vẽ mặt mình hề ngồi núp mưa trong góc phố buổi trưa không có người đi qua đi lại tôi ngó cho đỡ buồn tôi sẽ đi hết cơn mưa này tối tăm mặt mũi em sẽ là người cuối cùng tôi còn nhớ lại da tóc và lông lá những giọt nước mưa chảy trong kẽ ngón chân tôi rùng mình trời mưa lâu quá em không đi qua ngã này cho tôi thấy em ướt hết tôi không còn tham lam gì nữa tôi muốn ngồi ở đây rồi ngủ quên một người hai người mưa như to thêm một ngàn một vạn muôn vạn ức triệu người chết hôm qua hôm nay mai mốt nữa Timishoara Budapest Praha Berlin Bucarest Sofia Siberia Thiên An Môn súng máy súng trường dao găm lựu đạn xe tăng thiết giáp thuốc độc thuốc mê chết đứt đầu chết mất xác chết bị moi óc chết bị móc mắt chết như kiến chết chết ruồi bu kiến đậu chết không kịp ngáp chết buổi sáng chết buổi trưa chết buổi chiều chết lúc nửa đêm chết oan ức chết tức tối chết nghiến răng chết trợn mắt chết trong tù chết ngoài đồng chết giữa đường phố chết trong hầm mỏ chết một mình chết tập thể chết không có giấy đắp mặt chết không ai chôn chết hết đường chết chết trần truồng như cha mẹ sinh ra lúc đó kẻ giết người không đeo mặt nạ kẻ giết người không làm dấu thánh kẻ giết người không lần tràng hạt nam mô kẻ giết người đứng đọc diễn văn kẻ giết người hô nhân dân muôn năm kẻ giết người cười kẻ giết người sửa lại cổ áo và súng máy xả vào đám đông nhân dân tôi muôn năm lúc đó không còn tiếng người la hét nữa
trời mưa to thêm một người đàn ông bên kia đường chạy qua đứng chen chân vào chỗ tôi ngồi người đàn ông nhìn tôi tôi không nghe tiếng người đàn ông nói tôi đứng dậy hút thuốc bước ra ngoài người đàn ông ngồi vào chỗ tôi tấm băng khẩu hiệu giăng giữa hai cột điện nước trôi còn hai chữ muôn năm không có N không biết ở nhà mấy đứa con có lấy áo quần phơi ngoài dây thép vào không
(ngày 17 tháng 1 năm 1990)
-----------------------
Bấm vào đây để đọc những tác phẩm của Phanxipăng đã đăng trên Tiền Vệ.
|