| 
 
 
 | 
| 
	    VIỆT NAM, TỔ QUỐC VÀ EM [I]
	 | 
|   |   
DIỄM CHÂU sinh tại Hải-phòng, thành phố cảng. Trở thành tổng thư ký tạp chí Trình bầy ở Sài-gòn trong những năm 70. Rời khỏi miền Nam Việt Nam từ năm 1983. Thơ Diễm Châu phần lớn là thơ không vần, nhưng đôi khi cũng có vần. Thường là thơ “chính sự” hoặc “tình cảm” hoặc cả hai. Ông còn dịch thơ, truyện và kịch thế giới. 
Việt Nam, tổ quốc và em in lần thứ nhất tại Lộ-trấn, Pháp vào năm 1993 trong tủ sách Thơ/ Trinh bầy, chia làm ba phần: “Người làm vườn và bông hoa”, “Việt Nam, tổ quốc và em” và “Đốm hương”, gồm một số bài viết từ 1969 đến 1993...  _________________ 
VIỆT NAM, TỔ QUỐC VÀ EM [I]
  Nothing happens unless first a dream. CARL SANDBURG  
rong rêu mình lướt cỏ mềm
 
ngàn trùng trở mộng một thềm hạnh hoa
 
cũng là gió táp mưa sa
 
nghìn xưa sau vẫn là ta với mình... 
 DC. (trích Hạnh hoa) 
Người làm vườn và bông hoa:
 Tặng Jean Reye. 
Không có người, tất cả chỉ là ngụ ngôn;
 
không còn người, cả đến ngụ ngôn cũng hóa đá.
 DC. NHƯ MỘT ĐƯỜNG DÂY HÚT GIÓ 
                                                —  gửi Ngô Kha
 Từ biển cả mênh mang với những đồng cát trắng  tôi trở về thành phố ngủ yên buổi chiều thức dậy trong khe núi đá khô chờ giọt mưa rưng rưng ôi quê hương của một dòng sông với những triền ngô tỏa mềm ánh sáng những con đò đan những vết thương lên mình nước dàn đi                                 những mảnh đời rách nát tôi trở về để nhìn tôi thiêu thân và nhìn em đội vòng gai hận thù rướm máu những ngọn đuốc năm xưa thắp màu hỏa hoàng lên áo ấy và chiều buồn ru mình vào tiếng ve những cánh dơi bay về cổ thành và em làm giọt mưa lăn xuống má ấy thương yêu gầy trong vành nón và khổ đau lay từng gót chân nai một buổi mai tôi tung tăng ngoài lộ như bóng mây hồng còn đợi nắng phất phơ tôi ngửa mặt đón làn sương mai từ mẩu tre ngà khum vòng tay gió biếc em lặng lờ như tiếng hát trong vườn cây vả cũng đơm bông* tôi níu chùm hoa dâng một ngày đã mất và hương hoa làm ngây ngất hồn tôi tôi đưa tinh tú về bên dẫy núi đón tay em từng ngón vuốt ve và thảm cỏ thở mùi tóc trầm và viền môi quyện áng mây đưa tôi ngửa mặt nhìn tôi trong ánh mắt thấy em về trong cánh bướm hư vô vào trong ngõ lá thuôn xác xơ màu tưởng niệm tôi lạc mất tôi trong thành phố và em khi những bước đi của loài rắn quanh co còn vần vi bên trái táo những vết chân của loài rất độc còn cày sâu trên vừng trán dòng sông những bụi cỏ lấp dần tiếng hót của loài chim mang định mệnh trong hồn tôi ngỡ ngàng đuổi theo em như một đường dây hút gió... Huế, 1969 (Tạp chí Đất Nước) ----------------- * Vì một “hạt sạn” ở dòng này khi đăng trên tạp chí Đất Nước, Ngô Kha cho tôi biết: cây vả đằng nhà không có hoa.— Ấy chính là lý do..., tôi đáp. (DC.) NGỌN ĐÈN SOI KHÔNG TỎ Thầy chết được năm ngày xác đem về quàn đó gạo bỏ vào rang, xay miệng Thầy đầy một lọ tóc tai Thầy mẹ chải xống áo Thầy ông thay hai vạn cỗ quan mới Thầy nằm xuôi đôi tay Chú Ba nhường thửa ruộng 
đất này nung gạch đây! 
 Mưa rơi khi Thầy xuống một thước nước đầy vơi dập dềnh áo quan bơi hai người dìm đầu cuối mười người mình nhễ nhại mai, cuốc đứng chuyên giài bùn đât rồi bùn đất giữ Thầy dưới huyệt nông hai đầu bốn cành chông vòng hoa bày trước mặt Mẹ khóc rồi ông nói 
nó chết hãy còn may
 
hai vạn cỗ quan mới
 
trả xong biết mấy đời
 
lũ bay còn nhỏ dại
 
tám đứa làm sao nuôi
 
nó chết rồi nằm đấy
 
chỉ khổ người sống thôi...
 Thằng Đỏ và thằng Trắng Khóc Thầy không ra hơi Chú Ba ngồi im lặng hất mẩu đất lên Thầy: 
đất này nung gạch đây
 
đắp thêm lên chút nữa
 
thêm lên vậy khéo rồi
 
trâu đằm cũng chả sợ...
 Ông về mẹ còn khóc mẹ nhớ đã bảo Thầy cố thêm chúng ăn học Trời thương cũng có ngày... Ngọn đèn soi không tỏ con ngồi khóc thương Thầy thằng Trắng và thằng Đỏ day vú mẹ mãi thôi mưa rơi rồi mưa rơi mưa rơi hoài mưa rơi mưa rơi đều như thế mưa rơi mãi Thầy ơi con ngủ mê hòa bình mặt trời đen rưng rức Thầy nằm dưới lòng vực Thầy chết có một mình. (Tạp chí Đất Nước) DƯỚI CHÂN CẦU CÁI CÁ Khi ánh chiều lãng đãng trôi theo dòng nước và cánh bèo qua mau dưới chân cầu lùa bóng đêm vào đầy tâm hồn tôi thì nụ cười em chợt nở ra như một đóa hoa quỳ và ở phía xa tôi nghe tiếng con tàu réo gọi cùng đốm lửa chập chờn rồi tắt ngấm người ra đi gửi về từng đợt sóng và bụm cỏ cúi đầu nhận cái hôn làn môi lạnh                    biển khơi ấy là lúc tôi quay về tìm em trong bóng tối chung quanh tôi đời lãng đãng qua mau những cánh bèo nhòa nhạt cùng ánh chiều ước mơ và nụ cười em như một đóa hoa quỳ tôi chờn vờn trên tóc em tưởng mình là người hoa tiêu một hôm rời quê hương với con tàu bạc phước nhưng tôi không sao nghĩ tới những bờ cỏ khi đóa hoa quỳ em nở trên môi vì ở mãi tận phía xa cuối những hàng dừa ôm từng khối bóng chợt lóe lên những tia lửa phù du ôi giây phút nó ngã xuống  – dưới một trời đầy sao – réo gọi tên tôi rền rĩ... ấy là lúc tôi quay về tìm tôi trên mình em trong bóng tối chung quanh tôi đời loáng thoáng quay mau những cánh bèo nhòe nhoẹt cùng ánh chiều ước mơ và nụ cười em chợt nở ra như một đóa phù dung. Vĩnh Long, 1969 (Tạp chí Đất Nước) TRÊN QUỐC LỘ 4 
     — gửi Anh Chị Nguyễn Đồng
 Tôi băng bưởi trên con đường lỗ chỗ  về miền Tây vựa lúa nước tôi những cánh đồng mênh mông như lời mời gọi những lạch sông rực ánh mặt trời những cây cầu chênh vênh những chuyến phà lộng gió những món quà đượm hương đồng nội những mẹ hiền và thiếu nữ thơ ngây... tôi đi mãi vào miền hy vọng ấy tưởng chừng như nhịp gót chân tôi cả trăm vạn người xưa cùng bước bàn tay nào mở mang bờ cõi bàn tay nào dựng nước dựng nhà khi khói vươn lên trên hàng dừa thẳng tắp khi cá về đầy ắp bến sông và lúa vàng rào rạt trổ bông tôi biết rõ là hơi thở ấy đã thổi vào lòng đất quê hương tôi biết rõ những giọt mồ hôi ấy đã làm sương phủ khắp cánh đồng và tiếng chim kêu trên bờ lau nhắc tôi tới những ngày nào đơn độc cánh tay trần chống trả với thiên nhiên con cá lội ngu ngơ giữa hai dòng nước biếc mở cho tôi cánh cửa bình yên của lao tác hiền hòa của kiên cường bất khuất tôi kiêu hãnh nhìn quê hương lớn mãi với giấc mơ một dân tộc anh hùng tôi nghe tiếng người xưa thầm gọi trong miên man triều sóng biển khơi và tôi hiểu là đời tôi không thể ở yên như núi xa ở yên như dòng sông lặng lờ trôi cùng lục bình tưởng nhớ. Cần Thơ, 1969 (Tạp chí Đất Nước) TRONG NGUỒN CƠN ĐÓ 
— gửi Sachiko
 Nghĩ đến em bây giờ thật là buồn nghĩ đến em con đường phơi ánh sáng xám ngắt mùa thu rộ lá phong hồng cây cầu gỗ trơn dài những bước mềm của tuyết nghĩ đến em bây giờ thật là buồn thât là buồn mùa xuân không còn trên cỏ úa cánh chim xưa thôi vút qua làn khói nhẹ vẩn vơ con tàu đài-trung lọt vào vùng mưa buổi sáng nghĩ đến em nghĩ đến em nghĩ đến em mùa đông bắc-hải- đạo băng qua thái-bình-dương đổ về nam-hải ngày sài- gòn đêm sài-gòn những là heo may rét quá rét quá... nghĩ đến em cơn lụt tới rần rần những óc trắng óc xám trôi ra từng bè mây vờn sóng ngọn bút sương mù quệt lên bọt bèo rác rến một năm hai năm ba năm mười một tháng em có nhớ Cái gì đỏ thắm trên môi em đó đôi môi mặt trời ửng chín giữa một mùa Thơ trắng toát nụ hôn đầu hết nồng nàn như mới yêu khổ đau đã tới khi được yêu thì vội đã chia ly Cái gì loáng thoáng trên tóc em những hình lục lăng tan mau như nước mắt hạnh phúc líu ríu trên tay nhau giữa lòng phố hẹp ngả nghiêng những bóng tối cùng bóng tím lùa từng miếng nhỏ qua chòm râu do- thái gạ bán cho mình hai đứa ba chiếc nón cái gì trong veo bỏng cháy như chén cà phê ái-nhĩ-lan ở buena vista khiến mình đã trèo lên tầng lầu cao nhất thế gian để nhìn từng bầy tinh tú lũ lượt rong chơi cùng những tinh cầu sắp tắt... Ôi có nghĩ đến em bây giờ cũng chỉ bằng như nghĩ đến quê hương.  (Tạp chí Trình bầy, số Xuân Tân Hợi) PHÚN THẠCH CỦA MÙA XUÂN KHẢI HUYỀN Trên cánh tay mỏi mệt trên nét mặt buồn thiu trên chiếc áo sơ-mi nhàu nát trên đôi giày gót vẹt trên đôi vai xiêu xiêu chĩu đổ trên trái tim mười bốn chặng đường khổ nạn trên vừng trán tầm tã mồ hôi của cơn sốt xuất huyết trên đôi môi héo khô của mật đắng giấm chua mùa xuân trở về như lưỡi đòng đâm suốt bên người những bông hoa đỏ thắm một ngọn đồi trọc mùa xuân trở về với tiếng gà eo óc ở thôn xưa với người lính già bần thần chối bỏ bình yên với tình yêu run rẩy trong ánh sáng xanh xao của đức tin hèn mọn mùa xuân trở về với ba mươi chín lằn roi với mão gai làm triều thiên cho người khốn khổ với áo đỏ bết máu với cây sậy quyền uy mùa xuân trở về với bảy mươi bảy lần sấp ngã với những tảng đá loang máu người vô tội với con đường bụi bặm dốc cao với cánh đồng trống trơn lỗ chỗ những hố bom rừng lớp lớp bày ra cảnh đìu hiu cách lạ: những thân cây làm thập tự giữa trời mùa xuân trở về với bầy thú săn đuổi con người với tiếng reo hò của loài kên-kên đói khát năm mươi vì sao giữa một nền trời gạch mặt quay cuồng năm mươi cánh tay bạch-tuộc                               chụp bắt                                           giằng xé                                                       hỏa thiêu phún thạch đã khô trong ống điếu của nhà trí thức ở phòng bột đen của hãng Pin lớn người công nhân không tìm thấy ánh sáng  – những con chuột chũi mãi đi trong bóng tối sự chết – trên lề đường nhân ái chúa bị quăng ra mùa xuân xối nước rửa tay tiếng hò reo của bầy kên-kên                                         bầy kên-kên                                                         bầy kên-kên.  (Tạp chí Trình bầy) TIẾNG NÓI 
                — gửi Trần Tuấn Nhậm
                    & Cao Nghi Bình
 Chim cánh trắng xôn xao vùng biển xanh diệu vợi tiếng còi tàu thét gọi rền rĩ trong đêm thâu trái tim cửa sổ mở nhìn ra khu vườn này gió lay ngọn bắp lay ánh hồng trên gương vỡ chúng ta ngồi bên nhau chụm từng thanh củi nhỏ kỷ niệm ngày xưa đó khói lam bay ngang đầu ngày vàng và đêm đen niềm vui xen nỗi nhớ mây trôi qua ưu phiền lửa hồng soi rực rỡ 
“thiêu trong vàng của gió”
 những đêm dài u mê bừng lên như hơi thở rừng căng từng thớ gỗ tiếng đàn trầm trong khe uy nghi và lặng lẽ đôi mi nào chớp khẽ nhè nhẹ bước em về ngày của ngày đã tới run run những ngón hồng trên vừng trán phương đông mặt trời hiền đã gọi quay lưng lại bóng tối những người con nhân loại những cánh tay dựng ngày lưỡi rìu là tiếng nói chim cánh trắng bay cao lòng trời xanh vô hạn giọt mồ hôi lấm tấm đọng lại trên bông đào. (Tạp chí Đứng dậy, số Xuân Đinh Tỵ) PARIS TRONG TẦM TAY 
                                — gửi mn.
 Chỉ một vài ngày nữa anh sẽ lên máy bay chiếc máy bay thân thẳng và trắng muốt sẽ cất cánh đưa anh tới hạnh phúc 
paris trong tầm tay!
 anh sẽ bay mải miết anh sẽ bay xa lánh những nhỏ nhen hận thù phân biệt những đố kỵ ghét ghen những tủi hờn sợ sệt 
paris trong tầm tay!
 anh sẽ nhìn xuống từ trên máy bay sài-gòn trong cơn mưa dầu nắng lửa những mái nhà chật chội những cõi lòng tan vữa 
paris trong tầm tay! 
 anh sẽ nhắm mắt để tận hưởng một chút say cái ghế êm thoải mái cái cảm giác thoát chết chiếc nón cối xa dần ảo tưởng cuối cùng đã hết 
paris trong tầm tay!
 rồi anh sẽ chệnh choạng bước thêm vài bước để nôn tháo ra những ý nghĩ chua cay và khi trở lại ghế ngồi anh sẽ khóc 
paris trong tầm tay!
 Sài-gòn, 7-1983 CƠN GIÔNG Có những chiếc lá trong gió vẫn tung tăng như vầng trăng khi ẩn hiện cười trên mặt giếng vẫn no đầy như mây trong cơn say bay mải miết cuốn theo những mảnh trời da diết bỏ lại cơn mưa hạt đong đưa trên hàng dừa ủ rũ bỏ lại cơn mưa bên dòng lũ bụi sóng còn in trên vách tim như muôn ngàn cánh chim về cùng bóng tối  – những chuỗi giờ đứt nối – bên đám tro màu xanh xám ơ hờ chúa ơi có những chiếc lá rơi nghiêng một trời giông bão. LỜI CẢM ƠN CÁC BẠN Ở CANADA 
                — gửi Nguyễn Khắc Ngữ, Đỗ Quý Toàn
 
                   & để nhớ Cao Bá Minh
 Các bạn đã viết thư cho ta các bạn đã gửi cho ta sách các bạn còn tặng quà cho xấp nhỏ cám ơn các bạn ở canada những người bạn thật xa nay đã chợt gần! cám ơn bụi forsythia vàng nhắc ta nhớ mùa xuân cám ơn những ngày cuối cùng ở việt-nam cám ơn ông Tố Như 164 năm sau còn có người nhớ cám ơn ngọn gió rung cây ở trong dường có hương bay cám ơn con sóng lút đầu đưa ta về phiến đá cám ơn những đỉnh cao tuyết phủ năm tháng ngủ dài nay vươn vai thức dậy cám ơn cái giường cám ơn khung cửa mở: mây còn đầy mưa trong mắt buổi sáng cám ơn lời mời dự “đám cưới ở Brownsville”* tiếng gọi âm thầm như nụ hôn trên cát cám ơn con tàu đâm suốt trái tim ta lời cảm ơn ngậm ngùi giữa một hồng đông lạnh cám ơn m ngọn lửa nhỏ bé dưới mồ không bao giờ tắt. 26. 4. 1984 ---------- * Isaac Bashevis Singer, in Short Friday... (DC.) HẠ KHÚC 
                — gửi Nguyễn Đăng Thường, Phương Sinh & anh Tư
 Ta nhặt được tờ thư từ thành phố sương mù những hàng chữ sít sao như hoa phượng chen nhau trong một mâm xôi lớn những hàng chữ lượn vòng như con đường chợt mở rộng trước mặt ta là cánh đồng sau lưng là hừng đông ta men theo trí tưởng trở về nơi có khói của một dòng sông hạ khúc chói lòa từ thành phố sương mù mây bạn trôi qua hàng dừa tóc xõa những nghĩ suy của ta phút chốc bỗng thăng hoa trái tim ta thoi thóp như bông gấc trắng ngà ta nghe trong tiếng leng keng chiếc xe người phát sữa tiếng nói cười từ thế giới bên kia ta nhìn rõ trong đôi mắt mở to trên từng chén cà phê sóng sánh bập bềnh những ước mơ và bạn ta – người đảng viên già – trong cơn say biến thành con ngựa đá một ngày hạ đơn sơ ta hóa thân loài côn trùng bi bô lời vô nghĩa trở về từ quê hương hoài niệm ta biết bạn không còn gì (nhưng ta còn bạn): từ thành phố sương mù ta đã nghe nhịp đập của trái tim xô từng lớp biển xanh ta bước quanh nỗi buồn cất đi giọt nước mắt tiếng sóng vỗ quanh bàn cuốn ta về với thành phố mù sương. 9. 5. 1984 DƯỚI CHÂN CẦU CÁI CÁ (II) Ở ngoài khơi có những đốm lửa chập chờn đi trên làn nước ánh sáng nhạt nhòa ướt đầm ngọn cỏ trong tôi có khung cửa ngỏ mây em về theo con gió đêm dưới chân cầu có dòng lũ miên man mây em chìm trong ánh đèn mờ tỏ quán bây giờ còn tấm biển không tên tôi bây giờ còn khung trời gió những bãi cát phơi vàng trong trí nhớ những hàng dừa đuổi mãi một vòng tay tôi chợt thấy hạt mưa cuối phố ở lưng trời sao vỡ không hay! bước nhè nhẹ lên cầu mây tôi lần về khung cửa gỗ a! tiếng ai cười như bông cỏ may hoa móng tay rụng đầy bên bờ đá có bão rớt ở đâu đây hay bão tố chỉ riêng tôi: buổi sáng còn thấy nhau buổi chiều đã mất ở ngoài khơi có những đốm lửa chập chờn đi trên làn nước. 17. 5. 1984 NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI NÓI CHUYỆN TRÊN XE LỬA 
                                                      — gửi Đỗ Quý Toàn
 Không thể ném xuống sông một con mèo xinh đẹp như thế một con mèo biết rướn đôi mày cong thả nhẹ làn khói thuốc và nghiêng đầu trên trang báo không thể ném xuống sông bởi dòng nước mùa xuân sẽ cuốn mau những mẩu thời gian băng giá nhất không thể trả lời những câu hỏi đơn sơ (nhưng thật khó) như bây giờ là mấy giờ chuyến xe lửa này đã tới chưa ngoại trừ: chết rồi định làm gì bởi câu trả lời nhất định phải là: yêu! không thể sống cho lúc vừa qua và chút nữa – dù ở thiên đường xanh hay địa ngục vàng bởi lúc này ngôn từ đã trở thành đạo cụ với ngoại cảnh là đồng hoa – tất cả chỉ là từ chương. 20. 5. 1984 ĐÊM Ở GIF-SUR-YVETTE 
I
 Chuyến tàu cuối cùng giận dữ bỏ đi ánh lửa trong ga chợt tắt cơn lạnh ùa ra như tên cướp khép những mắt cửa sổ con đường thì thầm lá khô hàng đèn đứng im thật trắng những trái hỏa châu rớt xuống sau đồi tiếng róc rách ở bên kia rặng cây ở bên kia mái tóc đẫm bụi mưa 
II
 tiếng chim hót vào ba giờ khuya giọt chuông loang trong gió buốt người lính xen-đầm đi ngủ lại những hộp rác kín bưng ngôi nhà không ánh lửa cánh cửa không người đợi rừng rã rượi trong đêm những bước chân gõ vào trái tim rỉ sét. NHỮNG CỌNG TRÀ Những cọng trà chơi vơi giữa chừng rồi đứng dựng như hàng cọc trên sông ôi em tôi đôi má rám hồng em đợi cơn mưa chiều em trông sao buổi tối bên sườn đồi thoai thoải trong vườn cũ âm u bước chân em nhẹ hơn lá mùa thu bàn tay em thoăn thoắt những búp non ngọt nhạt loạt soạt trên áo bầu em ngắt từng mảnh sao chén cơm đầy trong mắt — hồi hôm gần trạm Ma-gui* đột xuất đã bắt được một người đàn bà bụng chửa: toàn trà! những cọng trà đứng dựng khi thủy triều rút. -------------- * Ma-gui hay Ma-ra-gui (địa danh) có lẽ từ “Margouillis” (tiếng Pháp)? NGƯỜI LÀM VƯỜN VÀ BÔNG HOA 
                                Tôi, người làm vườn và bông hoa
 
                                Không đơn chiếc trong nhà tù thế giới...
                                                              O. E. MANDELSTAM Khi chuyến xe buýt uể oải cuốn đi sợi cuối cùng của gió ta chỉ còn một không gian thủy tinh ở đấy nắng chảy xuống thành luồng như đổ lửa và lá cỏ vươn dài như những lưỡi gươm xanh buổi sáng đàn quạ kêu vang như lệnh vỡ ta bước ra vườn em còn mặc áo già lam trưa về ta ngồi sau song cửa ai đã thay màu rực rỡ cho em? ở chốn địa đàng ta không phải người tù duy nhất trót đưa chân nên quanh quẩn với người ta lục tìm trái tim với nỗi sầu chất ngất kết cho đời một tràng chuỗi tinh khôi... những lá cỏ cao dần theo con nắng những lá cỏ phủ kín mình hoa ta chỉ còn một vạt màu của biển và kỷ niệm một khoảnh khắc tình ta. 11. 7. 1984 MỖI NGÀY m yêu dấu mỗi ngày anh viết một tờ thư những lá thư chồng chất không người nhận mỗi ngày anh vẽ một con tem mang hình một người bạn những người bạn không còn nữa mỗi ngày anh trút hơi thở lên trang giấy hơi thở đóng băng mỗi ngày anh nắn nót từng dòng chữ dòng chữ hóa đá anh đằm mình trong bụm cỏ gặm nhấm ngày qua như một cọng rác anh lau mặt bằng tình thương mòn mỏi gạt những sợi tóc bạc dần... mỗi ngày tia nắng đầu tiên nhỏ một giọt lệ anh lại viết một tờ thư. 9. 1984 NHỮNG MÓN HÀNG Trên cánh bồ câu gần bào tàng viện Con Người   đôi mắt một người đen xè xè bay lượn ngày bắt đầu khi chúng tôi y hẹn tới bày hàng bên chân tháp Eiffel tôi bán dây da và bạn tôi bán hột soàn: những hạt thủy tinh trong như nước mắt những mảnh da màu cát bạn tôi bán hột soàn cho người châu á và châu mỹ la-tinh tôi chạy theo những khách mặc hàng trắng có đôi mắt xanh nưóc mắt của bạn tôi có thể dùng làm món đồ trang sức dây da của tôi để ăn diện hoặc quất lên những mảng lưng trần khi buồn bực chúng tôi bán tất cả giá rẻ mạt và thường tặng thêm những nụ cười trên cánh bồ câu gần bảo tàng viện Con Người những món hàng của chúng tôi xập xòe bay lượn mỗi ngày. 9.10.1984 TỰ DO 
                   — nhớ Thế Nguyên
 Khi người nghệ sĩ bản địa múa ballet trên chiếc xe cọc cạch kẻ thiên tài từ paris về giương ống kính thâu hình một bóng ma ôi tự do mi đã cho anh trương chi đỏ những đồng francs yêu nước mi đoàn kết những chuyến bay việt kiều đầy ắp những món hàng thâu lợi gấp trăm mi đã cho bạn bè ta mùi vị mật ong ảo tưởng thiên đường hé mở buổi chiều carnaval mi đeo mặt nạ cột vào lưng ta chiếc pháo thăng thiên từ chin tầng trời cao ngất ta ngó nghiêng như cánh diều ác độc nhìn quê hương quay theo vòng bánh xe người nghệ sĩ múa ballet đầu cúi xuống trái tim – nấm mộ ôi tự do mi cười như một con rối. THƠ Nếu em hỏi tôi thơ là gì tôi sẽ nắm tay em thật chặt và nói: chúng mình hãy đi uống bia nghe những người Bôlivia đánh đàn và thổi sáo nếu em gặng hỏi tôi thơ là gì tôi sẽ chỉ cho em những đám mây trên ngọn tháp và nói: ở cánh đồng trên ấy có bầy ngựa trắng nếu em vẫn không hài lòng với câu trả lời của tôi và tiếp tục hỏi thơ là gì tôi sẽ cắn vào môi chảy máu và nói: bông hồng của tim anh! miếng bánh em ăn và ly rượu trên bàn là thơ của bông lúa và chùm nho thơ của lá phong ửng chín là dòng nhựa miên man nâng cơn say lên cùng nắng và gió và thơ của em là mái tóc thơm mùi dưa hồng là đôi cánh tay tượng ngà nho nhỏ và chuỗi tiếng cười đuổi theo nhau như những hạt trân châu... em đã thấy thơ của những người Bôlivia chưa? — tiếng đàn của họ vàng như một cốc bia. 10. 1984 LỘ-TRẤN* Đi theo Gustave Doré trên những con đường quanh co  tới ngọn tháp hồng ngất ngư dưới lá cờ ủ rũ giã từ những áng mây nghệ sĩ – những vỉa hè đá cũ bập bềnh trong tưởng niệm xa xưa thành phố tiếng gót giày vọng lại từ bên kia sông Rhin thành phố những phế tích lượn vòng quanh với bóng ma lãnh chúa thành phố từng giọt chuông loang trong đêm màu lá úa thành phố vườn hồng ngủ mơ trên thung lũng xanh thành phố những bộ râu âm u thiếu mặt trời   thành phố đỉnh tháp chìm trong sương nhớ bông cỏ bay ngày chớm hạ thành phố bà mẹ ôm xác hai người con                                   biến thành tượng đá đi theo bông cỏ bay bay trong trí nhớ nhét vội chuỗi ngày buồn                                   trong túi một người câm nghe tiếng sóng âm thầm                                       xé toang lồng ngực gió. Tiểu Pháp-quốc, Lộ-trấn, 1985 ------------------ * Strasbourg, Yên Sa (Alsace), Pháp. Gustave Doré là một họa sĩ thời danh của Lộ-trấn và thế giới. (DC.) SAU MẶT KÍNH CỬA HÀNG Vách tường loang bóng hoa   dòng sông quên lớp sóng cây cầu xoay lóng ngóng con tàu trắng trôi qua trong bình viên sỏi nhỏ thấm miếng nước dần khô nụ hồng không mở nữa lá vàng theo cuống đỏ những con cú bằng sứ nhìn ta trong giấc mơ thời gian như cơn mưa dụi trên mi cửa ngỏ những con cú bằng gỗ nhìn ta xoay gót chân một sợi mây phân vân gợn trong tim rạn vỡ trôi dần trên suối mê những con cú bằng giấy đôi mắt màu cỏ dại rủ ta quên đường về. Tiểu Pháp-quốc, Lộ-trấn, 6.1985 HAI MƯƠI Sương mù không thấy mặt dòng lạnh quên trôi đi nhớ anh về em dại biển vắng bóng hải di. MƯỜI SÁU Trái rụng vườn sau hoa rơi ngõ trước bước đi một bước nửa chừng nhớ nhau. MƯỜI BA Mưa Sài-gòn tuyết sông Yên* có chung một bóng mây triền miên? -------------- * Dòng l’ Ill của Lộ-trấn. (DC.) R.I.P.* Có những kẻ vừa chợt cười chợt nói đã biến đi trong khoảnh khắc vô tình ở góc đường thường khi không chờ đợi còn thấy được một bàn tay họ vẫy... gót chân họ nhẹ nhàng như tà áo đôi khi mềm như mái tóc dòng sông nụ cười tươi và đôi mắt rất trong còn thoáng hiện trong chiều vàng ảo não họ đứng đợi dưới mái vòm thiên cổ hoặc đuổi theo khi mình chợt bước nhanh và buồn rầu trong tiếng gọi thất thanh như báo trước những điều mình lầm lỡ... hỡi chiếc bóng vừa nhìn tôi lần cuối và theo tôi về dưới mái giáo đường xin hãy khóc cùng tôi điều oan trái và nghỉ yên trong tình mộng phi thường. 19. 1. 1988 ------------------- * Requiescat in pace - ‘Xin hãy nghỉ yên’. (DC.) THI SĨ 
                — gửi Phương Sinh & NVBD.
 Khi những nhà chép sử bỏ đi anh vẫn có mặt anh nhìn những bóng ma tất tả và nhủ thầm sự thật                            không phải là chén cơm                                 không phài những khẩu hiệu anh mở toang trái tim mình một con cánh cam xanh biếc bay lên miên man với những cành phượng vĩ và trở về với cơn mưa nghiêng                                 trên con phố dài kỷ niệm ẩn dưới những nan hoa tháng ngày thấp thoáng anh là nụ hôn đi tìm chiếc lông chim. 6. 6. 1989 |