thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Con ngựa trắng nhỏ
 
Bản dịch của Nguyễn Đăng Thường
Hoàng Ngọc-Tuấn giới thiệu
 
 
 
PAUL FORT
(1872-1960)
Chân dung nhà thơ Paul Fort
bởi hoạ sĩ Jean Veber (1868-1928)
 
 
Dường như độc giả Việt Nam ít biết đến Paul Fort vì thơ của ông rất hiếm khi được dịch sang tiếng Việt, ngoại trừ bài thơ lừng danh “La Ronde” (Vũ điệu vòng tròn) đã có người dịch. Thế nhưng, Paul Fort là một tên tuổi rất lớn trong văn chương Pháp.
 
Có nhiều điều đáng nhớ về Paul Fort. Ở đây tôi xin kể vài điều:
 
Điều đầu tiên đáng nhớ về Paul Fort là danh hiệu “Prince des poètes” (Hoàng tử của các nhà thơ). Ngày 2 tháng Bảy, năm 1912, gần 450 nhà thơ và nhà văn Pháp đã bỏ phiếu tại toà soạn báo Gil Blas, để bầu một người xứng đáng với danh hiệu “Prince des poètes”, kế vị nhà thơ Léon Léon Dierx vừa qua đời. Kết quả là Paul Fort về nhất với 338 phiếu, và Raoul Ponchon về nhì với 95 phiếu. Trước và sau Paul Fort, trong số các nhà thơ giữ danh hiệu “Prince des poètes” có Paul Verlaine (từ 1894 đến 1896), Stéphane Mallarmé (từ 1896 đến 1898), Léon Dierx (từ 1898 đến 1912), Jules Supervielle (1960), Jean Cocteau (từ 1960 đến 1963), v.v. Paul Fort là người đã giữ danh hiệu này lâu nhất (suốt 48 năm, từ năm 1912 cho đến khi ông qua đời năm 1960).
 
Điều thứ nhì đáng nhớ về Paul Fort là tấm lòng vị tha của một nghệ sĩ đích thực. Cũng tương tự như Ezra Pound, Paul Fort đã cống hiến phần lớn cuộc đời của mình để quảng bá tác phẩm của văn nghệ sĩ đương thời. Ông đã bắt đầu giữ một vị trí quan trọng trong việc quảng bá nghệ thuật từ khi ông còn ở trường trung học. Năm 1890, lúc chỉ mới 17 tuổi, ông sáng lập “Théâtre d'Art”, một nhà hát do chính ông đứng ra đạo diễn, với mục đích xiển dương những vở kịch do các nhà thơ phái Tượng Trưng sáng tác. Đầu năm 1891, ông tuyên bố: “Théâtre d'Art sẽ hoàn toàn dành cho phái Tượng Trưng. Do đó nó sẽ phục vụ cho những bậc thầy của trường phái mới mẻ này — Stéphane Mallarmé, Paul Verlaine, Jean Moréas, Henri de Régnier, Charles Morice. Vào cuối tháng Ba, nó sẽ trình diễn tác phẩm Tượng Trưng đầu tiên, để phục vụ cho Verlaine và nhà hoạ sĩ Tượng Trưng khả kính Paul Gauguin.” [*] Thật vậy, chỉ trong hơn hai năm hoạt động, Théâtre d'Art đã giới thiệu được nhiều tài năng mới mà sau này đã trở thành những tên tuổi quan trọng trong văn chương và nghệ thuật của nước Pháp. Năm 1905, Paul Fort sáng lập tạp chí nổi tiếng Vers et Prose, quảng bá những tác phẩm mới của Jules Laforgue, Alfred Jarry, Guillaume Apollinaire, Francis Carco, André Gide, Paul Claudel, v.v.
 
Điều thứ ba đáng nhớ về Paul Fort là thơ của ông đã được phổ nhạc bởi rất nhiều nhạc sĩ lừng danh, từ những nhạc sĩ hàn lâm đầu thế kỷ 20 cho đến những nhạc sĩ pop cuối thế kỷ 20. Theo ký ức của tôi thì, ít nhất, thơ của Paul Fort đã đi vào nhạc của Jean Absil, Arthur Honegger, Guy Morançon, André Caplet, Gabriel Pierné, Goerges Brassens, Joseph Archainbaud & Vincent Gambau, Jacques Castérède, Henriëtte Bosmans, Willem Pijper, Michel Dillard, Michel Hostettler, và Gabriel Yacoub, v.v. Nhưng có lẽ trong số rất nhiều bài thơ được phổ nhạc ấy, có 6 bài do Goerges Brassens soạn và trình diễn là được công chúng thế giới biết đến nhiều nhất. Đó là các bài: “La marine”, “L'Enterrement de Verlaine”, “Germaine Tourangelle”, “Si le Bon Dieu l'avait voulu”, “Comme hier”, và “Le petit cheval”.
 
Đa số thơ của Paul Fort được trình bày như văn xuôi. Nhà phê bình Gosse Edmund cho rằng tập thơ đầu tiên ra mắt năm 1897 (cuốn thứ nhất trong bộ Ballades Française, gồm 30 cuốn, xuất bản từ 1897 đến 1924) là “một điều hoàn toàn bí hiểm” đối với hầu hết độc giả Pháp thời ấy, vì “nó được in, và hiển nhiên đã được viết, như văn xuôi.” Thế nhưng, cũng theo Gosse Edmund, thơ văn xuôi của Paul Fort lại giàu có về tiết điệu, tương tự như thơ của Walt Whitman. Chính vì thế mà các nhạc sĩ cảm thấy thích thú khi đọc thơ Paul Fort. Và Gosse Edmund đã nhận xét chí lý rằng “Fort là một cây bút lôi cuốn nhân gian hoàn toàn qua lỗ tai, chứ không phải qua con mắt.” Đọc thành tiếng, hay ngâm nga..., thì bài thơ văn xuôi với tiết điệu đa tầng tự nó bung nở ra, “biến thành những sợi thơ mịn màng, giống như một bó rong biển khô được phục sinh thành nguyên trạng của nó.” [**]
 
Mời bạn đọc thưởng thức bài thơ “Complainte du petit cheval blanc” của Paul Fort, do nhà thơ Nguyễn Đăng Thường dịch sang Việt ngữ lần đầu. Đồng thời, chúng tôi cũng xin gửi đến các bạn một vài đường links để xem và nghe bài thơ này do Georges Brassens phổ nhạc và trình diễn (ở cuối trang).
 
Hoàng Ngọc-Tuấn
 
_________________________

[*]David Whitton, Stage directors in modern France (Manchester: Manchester University Press, 1987) 27.

[**]Gosse Edmund, French Profiles (New York : Dodd, Mead & Co., 1905) 335-336 [BiblioLife in lại năm 2009].

 
____________
 
 
gởi Phan Thị Lan Phương bản dịch này(NĐT)
 

Con ngựa trắng nhỏ

 
 
Một con ngựa trắng nhỏ
Chạy trong thời tiết xấu
Thảy đều ở phía sau
Can đảm thay ngựa ơi
 
Thời tiết chẳng hề đẹp
Trong cảnh đìu hiu ấy
Chẳng hề có mùa xuân
Sau lưng hay trước mặt
 
Nhưng ngựa vẫn vui vẻ
Chở các anh trai làng
Ở phía sau phía sau
Qua cánh đồng mưa đen
 
Cỗ xe cứ quay theo
Đuôi ngựa đẹp man dại
Vì ngựa rất hài lòng
Thảy đã ở phía sau
 
Nhưng một hôm trời bão
Mà ngựa thì rất ngoan
Vì một lằn sét trắng
Ngựa ngã lăn chết tươi
 
Dù chưa thấy mùa xuân
Cam đảm thay ngựa hỡi
Mi chết và lìa đời
Chưa được thấy mùa xuân
 
Trước mặt hay sau lưng
 
 
Nguyên tác của Paul Fort:
 
Complainte du petit cheval blanc
 
Le petit cheval dans le mauvais temps, qu'il avait donc du courage!
C'était un petit cheval blanc, tous derrière et lui devant.
 
Il n'y avait jamais de beau temps dans ce pauvre paysage.
Il n'y avait jamais de printemps, ni derrière ni devant.
 
Mais toujours il était content, menant les gars du village,
A travers la pluie noire des champs, tous derrière et lui devant.
 
Sa voiture allait poursuivant sa belle petite queue sauvage.
C'est alors qu'il était content, eux derrière et lui devant.
 
Mais un jour, dans le mauvais temps, un jour qu'il était si sage,
Il est mort par un éclair blanc, tous derrière et lui devant.
 
Il est mort sans voir le beau temps, qu'il avait donc du courage!
Il est mort sans voir le printemps ni derrière ni devant.
 
 
 
Georges Brassens và Paul Fort
 
Năm 1952, mừng sinh nhật thứ 80 của Paul Fort, Georges Brassens đã phổ nhạc bài thơ “Complainte du petit cheval blanc”, rút gọn nhan đề thành “Le petit cheval”. Ca khúc này được Georges Brassens thu âm lần đầu (ngày 14/05/1952) trên đĩa 78 vòng; và thu âm lần thứ nhì với đôi chút thay đổi trong giai điệu (ngày 18/01/1955) trên đĩa 45 vòng, cho album Hommage à Paul Fort. [Mời các bạn bấm vào hình để nghe nhạc]
 
 
Năm 1972, nhân ngày sinh thứ 100 của Paul Fort, Georges Brassens đã trình diễn ca khúc “Le petit cheval” cùng với nữ danh ca Hy-lạp Nana Mouskouri. [Mời các bạn bấm vào hình để xem video]
 
 
 
---------------------------------------------
Những bài thơ / ca từ của Georges Brassens qua bản dịch của Nguyễn Đăng Thường đã đăng trên Tiền Vệ:
 
Nhiều lời ca của Brassens (1921-1981) đã đọng lại trong ký ức của người đương thời như những bài thơ hay, và ông đã được xem là một trong những nhà thơ hàng đầu của Pháp thời hậu chiến. "Le parapluie" là một trong những bài nổi tiếng của ông... Tôi mong như vào thời hồng thủy / Mưa rơi mãi rơi hoài rơi hủy / Để giữ nàng dưới mái dù êm / Bốn mươi ngày và bốn mươi đêm... [Bản dịch của Nguyễn Đăng Thường]
 
"Bài hát cho người Auvergnat" ngợi ca tình huynh đệ bác ái, một trong vài ca khúc hiếm hoi của Brassens vắng bóng hài hước, đã gây xúc động mãnh liệt trong thời chiến và hậu chiến... Bài hát này cho anh / Anh, người Auvergnat không kiểu cách / Đã cho tôi bốn que củi nhỏ / Khi trong đời tôi trời làm gió rét... [Bản dịch của Nguyễn Đăng Thường]
 
Hài hước của Brassens rất "cool", rất "tỉnh bơ" vì đến từ sự quan sát tỉ mỉ thực tại và tâm lý chứ không cố tình làm hề để chọc cười. Chưa thấy ai kể chuyện "xui" (nghĩa tếu) lý thú hơn tác giả bài "Marinette"... Khi con chạy tới hát bài ca nhỏ tặng con Marinette, / Người đẹp, con phản bội, đã đi nghe nhạc ô-pê-ra. / Với cái bài ca nhỏ, trông con quê quá, mẹ ạ. / Với cái bài ca nhỏ, trông con quê kệch quá trời... [Bản dịch của Nguyễn Đăng Thường]
 
Nhiều lời ca của Brassens (1921-1981) đã đọng lại trong ký ức của người đương thời như những bài thơ hay, và ông đã được xem là một trong những nhà thơ hàng đầu của Pháp thời hậu chiến. "Les lilas" là một trong những bài nổi tiếng của ông... ... Tôi ghi bằng một chữ thập trắng / Để nhớ ngày hai đứa bay thẳng / Hổn hển bám vào một cành hoa / Một cành một cành hoa lilas... [Bản dịch của Nguyễn Đăng Thường]
 
Nhiều lời ca của Brassens (1921-1981) đã đọng lại trong ký ức của người đương thời như những bài thơ hay, và ông đã được xem là một trong những nhà thơ hàng đầu của Pháp thời hậu chiến. "La mauvaise réputation" là một trong những bài nổi tiếng của ông... Trong làng mình dù chẳng muốn khoe khoang / Tôi được tai tiếng là không đàng hoàng / Dẫu có nói năng hay dầu câm lặng / Tôi vẫn bị coi là kẻ nhập nhằng / Thế đấy tôi đâu có chọc ghẹo ai / Khi đường tôi tôi đi rất thoải mái / Nhưng ai nấy đều không ưa những đứa / Chưa theo họ trên đường ngay ở giữa... [Bản dịch của Nguyễn Đăng Thường]
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021